CHƯƠNG MỞ ĐẦU: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Kể
từ sau chiến tranh thế giới thứ II, du lịch trên phạm vi toàn cầu đã phát triển
nhanh chóng với tốc độ bình quân về khách 6,93%/năm, về thu nhập 11,8%/năm và
trở thành ngành kinh tế quan trọng hàng đầu. Theo tổ chức du lịch thế giới
(UNWTO), bất chấp tình hình kinh tế khó khăn kéo dài ở một số quốc gia và khu vực,
lượng khách du lịch quốc tế năm 2015 đã đạt hơn 1 tỷ người, cũng là năm thứ 6
liên tiếp đạt mức tăng trưởng hàng năm từ 4% trở lên.
Ngành
du lịch ở Việt Nam đóng vai trò vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế-xã
hội. Theo công bố vào tháng 3/2016 của hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới
(WTTC), du lịch ở Việt Nam đóng góp 6,6% vào GDP, xếp thứ 40/184 nước về quy mô
đóng góp trực tiếp vào GDP và xếp thứ 55/184 nước về quy mô tổng đóng góp vào
GDP quốc gia. Cụ thể du lịch đóng góp cả trực tiếp, gián tiếp và đầu tư công là
584.884 tỷ đồng (tương đương 13,9% GDP), trong đó đóng góp trực tiếp của du lịch
vào GDP là 279.287 tỷ đồng (tương đương 6,6%
GDP). Du lịch tạo ra hơn 6,3 triệu việc làm cả trực tiếp và gián tiếp (chiếm
11,2 %), số việc làm trực tiếp được tạo ra là 2,783 triệu (chiếm 5,2% tổng số
việc làm). Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030
đã đề ra mục tiêu: “Đến năm 2020 du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn,
có tính chuyên nghiệp, có hệ thống cơ sở vật chất tương đối đồng bộ, hiện đại;
sản phầm du lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc
văn hóa dân tộc, cạnh tranh được với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam trở thành quốc gia có ngành du lịch phát triển”.
Tuy
nhiên ngoài những đóng góp tích cực nêu trên thì cũng tồn tại không ít những
tiêu cực mà du lịch mang lại. Đó là vấn đề ô nhiễm môi trường, an ninh trật tự,
hư hại các di sản… đã được đề cập trong rất nhiều các chương trình nghị sự của
các quốc gia trên thế giới. Chính vì lẽ đó đòi hỏi chúng ta phải phát triển những
mô hình du lịch không chỉ vận hành hiệu quả mà còn có thể khắc phục được những
hạn chế trên và hướng đến một mục tiêu bền vững. Du lịch dựa vào cộng đồng hay
du lịch cộng đồng (DLCĐ) là mô hình phát triển du lịch một cách toàn diện, một
trong những loại hình phát triển du lịch bền vững, với sự tham gia trực tiếp của
người dân địa phương vào các hoạt động du lịch. Vì có những lợi ích mà du lịch
mang lại nên người dân cũng có ý thức tự giác trong xây dựng và bảo vệ địa điểm
du lịch của địa phương mình. Đặc biệt điều kiện của nước ta với hơn 70% địa
hình là đồi núi, là nơi tập trung nhiều tài nguyên du lịch (hang động, phong cảnh,
rừng, suối…), nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số, còn giữ được bản sắc
văn hóa. Những điều kiện trên vô cùng thuận lợi để phát triển du lịch sinh thái
cộng đồng và du lịch văn hóa cộng đồng.
Du
lịch cộng đồng xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1997, trải qua hơn hai thập kỷ hình
thành và phát triển, du lịch cộng đồng đã đem lại nhiều lợi ích kinh tế cho người
dân địa phương tuy nhiên vẫn chưa thực sự đạt được những thành công mong đợi. Đa
số vẫn chỉ là loại hình homestay (hình thức khách du lịch đến ở nhà người dân địa
phương để cùng ăn, nghỉ, trải nghiệm cuộc sống cộng đồng), tỷ lệ hộ dân tham
gia vào du lịch còn quá ít, tổ chức tự phát, manh mún nên nên sự chuyên nghiệp
chưa cao.
Bản
Lác, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình được đánh giá là một mô hình du lịch cộng đồng
tương đối thành công. Trải qua hơn 20 năm làm du lịch Bản đã có những thay đổi rõ
rệt trong đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên cũng cũng giống như nhiều mô
hình du lịch cộng đồng khác các dấu hiệu thiếu bền vững ngày một xuất hiện nhiều,
phải kể đến sự mai một về văn hóa, hiện tượng bất chấp lợi nhuận sẵn sàng thay
đổi các giá trị truyền thống, tác động xấu đến môi trường, cách thức làm du lịch
thiếu chuyên nghiệp và chưa nhận được sự quy hoạch xứng đáng với tiềm năng và
chất lượng…
Bên
cạnh các vấn đề trên, công tác đánh giá và nhìn nhận các vấn đề thiếu bền vững
trong các mô hình du lịch tại Việt Nam vẫn còn hạn chế, phương pháp đánh giá
chưa có cơ sở chặt chẽ, và hiển nhiên các giải pháp được đề xuất để nâng cao
tính bền vững cho các điểm du lịch vẫn chưa cụ thể. Chính vì các lý do trên,
nhóm tác giả đã lựa chọn thực hiện đề tài “Đánh
giá phát triển du lịch bền vững: Trường hợp mô hình du lịch dựa vào cộng đồng tại
Bản Lác, xã Chiềng Châu, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình” nhằm tìm kiếm và áp
dụng một phương pháp đánh giá bài bản dựa trên cơ sở định lượng để phát hiện
các khía cạnh thiếu bền vững, qua đó đề xuất các biện pháp cải thiện cần thiết.
Đồng thời, đây cũng là căn cứ để rút ra
bài học cho các mô hình du lịch dựa vào cộng đồng khác đối với mục tiêu phát
triển một cách an toàn và ổn định trong tương lai.
Mục
tiêu nghiên cứu chung: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm
đánh giá mức độ bền vững của mô hình du lịch dựa vào cộng đồng tại Bản Lác, xã
Chiềng Châu, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình và đưa ra những đề xuất để cải thiện
và nâng cao tính bền vững cho mô hình du lịch này.
Mục
tiêu nghiên cứu cụ thể:
- Xây
dựng bộ tiêu chí đánh giá phát triển du lịch bền vững tại Bản Lác.
- Xác
định phương pháp đo lường mức độ bền vững của điểm du lịch.
- Rút
ra kết luận về các khía cạnh thiếu bền vững và đề xuất giải pháp cải thiện.
Nhằm
thực hiện các mục tiêu nêu trên, đề tài nghiên cứu cần phải trả lời được các
câu hỏi:
- Đánh
giá phát triển du lịch bền vững tại Bản Lác bằng các tiêu chí nào?
- Đo
lường mức độ bền vững của điểm du lịch bằng cách nào?
- Cần
phải làm gì để cải thiện các khía cạnh thiếu bền vững?
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-
Đối tượng nghiên cứu: Mức độ bền vững của mô hình du lịch
dựa vào cộng đồng tại Bản Lác, xã Chiềng Châu, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
-
Phạm vi nghiên cứu:
+
Phạm
vi nội dung: Phát triển du lịch bền vững là một lĩnh vực nghiên cứu rộng lớn,
trong nghiên cứu này việc đánh giá được thực hiện với một điểm du lịch cụ thể
và chỉ tập trung vào các công cụ đánh giá định lượng.
+ Không gian nghiên cứu: Nghiên cứu
được thực hiện trên địa bàn Bản Lác, xã Chiềng Châu, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa
Bình; trong đó chủ yếu làm việc tại khu vực Bản Lác 1, trung tâm của điểm du lịch
này, đây cũng là khu vực được lựa chọn điều tra số liệu.
+
Thời gian nghiên cứu: Đề tài được thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng
01/2017 – tháng 04/2017, trong đó thực hiện thu thập dữ liệu tại địa bàn nghiên
cứu từ cuối tháng 03/2017 – đầu tháng 04/2017.
Nội dung đề tài nghiên cứu được
trình bày theo kết cấu gồm 6 chương, ngoài mục lục, danh mục hình vẽ, bảng biểu,
chương mở đầu, tài liệu tham khảo và phụ lục:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh
vực đề tài
Chương 2: Cơ sở lý luận liên quan đến lĩnh vực đề
tài
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả đánh giá và thảo luận về mức độ bền
vững của mô hình du lịch Bản Lác
Chương 5: Đề xuất cải thiện tính bền vững của mô
hình du lịch tại Bản Lác
Chương 6: Kết luận, hạn chế của đề tài và hướng
nghiên cứu trong tương lai
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THUỘC
LĨNH VỰC ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan nghiên cứu về đánh
giá tính bền vững của du lịch
Kể từ khi ra đời, thuật ngữ phát triển bền vững đã tạo nên một làn sóng mới trong giới khoa học,
áp lực kinh tế khiến việc bất chấp tăng trưởng ồ ạt đã khiến những biểu hiện
thiếu bền vững xuất hiện ngay cả trong ngành công nghiệp không khói (du lịch).
Các nghiên cứu về đánh giá phát triển du lịch bền vững đã nhận được sự quan tâm
rộng rãi của các nhà khoa học, chính phủ và tổ chức phi chính phủ trên thế giới,
nổi bật trong đó phải kể đến Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài
nguyên Thiên nhiên (IUCN) với việc phát triển một thước đo sự bền vững
(Barometer of Sustainability) được sử dụng làm chuẩn mực cho rất nhiều nghiên cứu.
Tuy nhiên, để có thể đánh giá được mức độ bền vững của một hay nhiều điểm du lịch
một cách bài bản là không dễ dàng, đặc biệt khi việc đánh giá sử dụng yếu tố định
lượng. Các nhà khoa học khi thực hiện đánh giá tính bền vững của du lịch luôn
phải cân nhắc về hai vấn đề: Nội dung đánh giá và phương pháp đánh giá.
1.1.1. Xác
định nội dung đánh giá phát triển du lịch bền vững
Nội
dung đánh giá được thể hiện ở các khía cạnh bền vững (Dimensions) và các tiêu
chí được chọn lựa (Criterias/Sub-Criterias). Mắc dù gần như tất cả các học giả
đều đồng ý với việc đưa ba trụ cột (khía cạnh) chính của mục tiêu phát triển bền
vững (Kinh tế, Xã hội, Môi trường) vào nội dung đánh giá tuy nhiên họ vẫn cho
thấy rõ những quan điểm khác nhau trong cách phân chia các vấn đề này khi thực
hiện tại các tình huống nghiên cứu cụ thể. Bossell (1999), Mowforth & Munt
(1998) là những người đầu tiên cho rằng môi trường nên được cụ thể hóa là mặt
sinh thái du lịch, khía cạnh bền vững nên bao gồm cả các tác động về thế chế/chính
trị và công nghệ, bên cạnh đó, yếu tố văn hóa nên được tách rời làm một khía cạnh
riêng. Đồng tình với quan điểm này là Chris và Sirakaya (2006) cho rằng sinh
thái và công nghệ là hai khía cạnh lớn trong phát triển du lịch bền vững tuy
nhiên lại không áp dụng đánh giá về mặt chính trị. Các yếu tố về môi trường còn
được cụ thể hóa thành: tác động của du lịch đến môi trường, chất lượng hệ sinh
thái, đa dạng sinh học và chính sách bảo vệ môi trường trong nghiên cứu của Ko
(2001) hay vấn đề bảo vệ môi trường tự nhiên và các tác động đến môi trường địa
phương theo quan điểm của García-Melón và cộng sự (2011). Ngoài ra, Uzun và cộng
sự (2015) còn đề cao các giá trị về tự nhiên và xếp đây là một trong các tiêu
chí lớn của du lịch bền vững.
Các
tác giả đều có sự thống nhất ở khía cạnh kinh tế tuy nhiên cũng có quan điểm nhấn
mạnh vào vấn đề lao động và việc làm trong sự phát triển của du lịch như của
Castellani và Sala (2010).
Ngày
càng nhiều các nghiên cứu quan tâm đến vấn đề thể chế và chính sách trong du lịch,
tiếp nối Mowforth & Munt (1998) và Bossell (1999), Ko (2001) đề cập tới
chính sách quản lý môi trường và coi đây là một khía cạnh quan trọng cần được
lưu tâm. García-Melon (2011) xác định quản lý và thể chế có tác động mạnh mẽ tới
việc phát triển du lịch bền vững, đồng tình với ý kiến này còn có Azizi (2011),
Wang (2013) và Uzun (2015).
Bên
cạnh các khía cạnh căn bản và vốn đã được quan tâm ở trên, một số nhà nghiên cứu
còn đề cập tới khía cạnh về cách thức thực hiện du lịch và cộng đồng địa
phương. Ko (2001) đưa ra quan điểm về đánh giá chất lượng sản phẩm dịch vụ du lịch,
cách thức thực hiện du lịch cũng được đánh giá qua các nghiên cứu của
García-Melón (2011), Castellani và Sala (2010), Lin và Lu (2012), đặc biệt nhấn
mạnh vào tiêu chí sự hài lòng về du lịch theo quan điểm của Uzun (2015). Lợi
ích và năng lực của cộng đồng ngày càng được coi trọng khi nguyên tắc về sự
tham gia của cộng đồng trong phát triển du lịch có được sự quan tâm đúng mực
hơn, đặc biệt là trong các mô hình du lịch dựa vào cộng đồng (Community - Based
Tourism), yếu tố phúc lợi cộng đồng được coi là một khía cạnh đánh giá sự bền vững
trong nghiên cứu của Uzun và cộng sự (2015), các vấn đề về cộng đồng trong
nghiên cứu của Lin và Lu (2012).
Tuy
nhiên rất nhiều các nhà nghiên cứu vấn giữ nguyên quan điểm và sử dụng 3 tiêu
chí bền vững căn bản để đánh giá mức độ bền vững của các mô hình du lịch, điều
này có thể thấy ở các nghiên cứu của Mowforth & Munt (1998), Lozano-Oyola
và cộng sự (2012), Splanis và cộng sự (2005), Tsaur và cộng sự (2005), Blancas
và cộng sự (2010), D. Rio và cộng sự (2012), Huang và cộng sự (2016). Các nhà
nghiên cứu của Việt Nam cũng có chung quan điểm như vậy, điển hình phải kể đến
nghiên cứu về du lịch tỉnh Bình Thuận của La Nữ Ánh Vân (2012), các nghiên cứu
đánh giá tính bền vững của mô hình du lịch làng nghề của Trịnh Kim Liên (2013)
và Bạch Thị Lan Anh (2011), nghiên cứu đánh giá mức độ bền vững du lịch vịnh
Bái Tử Long của Châu Quốc Tuấn và Nguyễn Thị Minh Hiền (2014). Tuy nhiên tại Việt
Nam việc đánh giá phát triển du lịch bền vững thường được lồng ghép vào các
nghiên cứu phân tích thực trạng du lịch hay đề xuất giải pháp phát triển mà
không được xác định là mục tiêu nghiên cứu chính, khiến cho cách thức đánh giá
chưa được bài bản, chủ yếu được thực hiện dưới dạng đánh giá chủ quan của tác
giả dựa trên số liệu thống kê thực trạng và ít sử dụng các công cụ định lượng
trong phương pháp tiến hành.
Tóm
lại, có nhiều quan điểm khác nhau về việc xác định nội dung đánh giá du lịch bền
vững giữa các tác giả nhưng các nhà khoa học đều đồng tình với việc phải dựa
trên các khía cạnh căn bản của phát triển bền vững, bên cạnh đó cần quan tâm
các đặc trưng của mỗi tình huống nghiên cứu cụ thể mà xác lập các tiêu chí đánh
giá phù hợp.
1.1.2. Xác
định phương pháp đánh giá và loại thang đo sử dụng
Trong khuôn khổ nghiên cứu này, tác giả sẽ không đề cập tới
cách thức đánh giá phổ thông là đánh giá chủ quan dựa trên việc quan sát, cảm
nhận và một cơ sở dữ liệu thống kê mà tập trung vào cách thức đánh giá có sử dụng
công cụ định lượng. Phương pháp này chỉ được phát hiện ở một số ít các nghiên cứu
tại Việt Nam điển hình là công trình của La Nữ Ánh Vân (2012). Trong khi đó,
các nhà khoa học trên thế giới đã phát triển một số lượng đáng kể các công cụ
đánh giá tính bền vững của du lịch nhưng để áp dụng một cách bài bản các phương
pháp này cần phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về cơ sở lý luận và thực tiễn.
Một trong những cơ sở đầu tiên cho việc đánh giá tính bền
vững của du lịch là sự ra đời của Thước
đo sự bền vững (Barometer of Sustainability), được phát triển bởi
Prescott-Allen và IUCN (1996), thang đánh giá của công cụ này được sử dụng rộng
rãi trong các nghiên cứu của Ko (2001), Tsaur (2005), Lin & Lu (2012) và
các nghiên cứu đánh giá sự bền vững ở nhiều lĩnh vực khác. Các nhà nghiên cứu
có các phương pháp khác nhau để đánh giá, trong đó có phương pháp giản đơn như
sự áp dụng thang đo 5 điểm của D. Rio (2012) đến các lý thuyết và kỹ thuật khá
phức tạp như lý thuyết mờ (Lin, 2012), lý thuyết hệ thống xám (Wang, 2014), dấu
chân sinh thái (LI, 2011)… Mặc dù có áp dụng cách đánh giá nào thì nhìn chung
các nghiên cứu đều phải được thực hiện dựa trên một (hoặc nhiều) thang đo tính
bền vững, được xác định rõ ràng các tiêu chí và các biến đo lường (biến thang
đo). Điều này lại làm nảy sinh một vấn đề rằng nên chọn loại thang đo nào cho
nghiên cứu. Thông thường, các biến đo lường được chia làm hai dạng chính: Biến
đo lường khách quan (Objective indicator) và biến đo lường chủ quan (Subjective
indicator). Thang đo khách quan sử dụng dữ liệu định lượng và đa số được mô tả
bằng các hàm tính toán (Sanchis và cộng sự, 2008; Hsu và cộng sự, 2009; Prusty
và cộng sự, 2010). Trong khi đó thang đo chủ quan lại dựa trên thái độ và cảm
nhận cá nhân, thiên về định tính, thang đo khách quan thường được áp dụng nhiều
hơn vì tính chính xác và chặt chẽ của nó. Trong trường hợp đánh giá du lịch bền
vững, không chỉ cần sự đánh giá khách quan mà còn phải xem xét trên nhiều
phương diện khác nhau từ góc độ của nhà quản lý, chuyên gia khoa học hay người
dân địa phương,… Chứng minh cho luận điểm này, số lượng các nghiên cứu sử dụng
thang đo lường chủ quan và khách quan là khá tương đương, thậm chí với trường hợp
đánh giá sự bền vững điểm du lịch, thang đo chủ quan còn được sử dụng rộng rãi
hơn.
STT |
Tác giả |
Cơ sở và công
cụ đánh giá |
Loại
thang đo |
1 |
Tae
Gyou Ko, 2003 |
Thước
đo sự bền vững, bản đồ đánh giá, phương pháp chung mô tả và đánh giá hệ sinh
thái (AMOEBA) |
Khách
quan |
2 |
Francisco
Javier Blancas và cộng sự |
Phương
pháp phân tích thành phần chính (Principal component Analysis), hệ thống tiêu
chí đánh giá, xếp hạng tính bền vững giữa các vùng. |
Khách
quan |
3 |
LI
Huiqin và cộng sự, 2011 |
Sức
tải môi trường du lịch (Tourism Environmental Carrying Capacity), Dấu chân
sinh thái du lịch (Tourism Ecological Footprint), Sức tải sinh thái du lịch
(Tourism Ecological Capacity) |
Khách
quan |
4 |
Mónica
García-Melón và cộng sự, 2012 |
Kỹ
thuật |
Chủ
quan |
5 |
Hamid
Azizi và cộng sự, 2011 |
Bộ
chỉ tiêu đo lường, mô hình tuyến tính tích lũy (the cumulative linear model) |
Khách
quan |
6 |
D.
|
Kỹ
thuật |
Chủ
quan |
7 |
Sheng-Hshiung
Tsaur và cộng sự, 2005 |
Kỹ
thuật |
Chủ
quan |
8 |
Yuti
Huang và cộng sự, 2016 |
Mô
hình phi tham số (Data Envelopment Analysis) |
Khách
quan |
9 |
Zheng-Xin
Wang và cộng sự, 2014 |
Hệ
thống chỉ số, Lý thuyết hệ thống xám (grey system analysis theory) |
Khách
quan |
10 |
Ling-Zhong
Lin và cộng sự, 2012 |
Lý
thuyết mờ (Fuzzy theory), kỹ thuật |
Chủ
quan |
11 |
Funda
Varnac Uzun và cộng sự, 2015 |
Bộ
tiêu chí đánh giá du lịch bền vững, phương pháp phân tích thứ bậc (AHP) |
Chủ
quan |
12 |
La
Nữ Ánh Vân, 2012 |
Bộ
tiêu chí đánh giá, thang điểm đánh giá các tiêu chí |
Khách
quan |
13 |
Trịnh
Kim Liên, 2013 |
Bộ
tiêu chí đánh giá |
Thang
đo không được đo lường cụ thể. |
14 |
Bạch
Thị Lan Anh, 2011 |
Các
khía cạnh bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường |
Không
có thang đo rõ ràng |
15 |
Châu
Quốc Tuấn và cộng sự, 2014 |
Các
khía cạnh bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường |
Không
có thang đo rõ ràng. |
Nguồn:
Tổng hợp của tác giả
Tuy nhiên vấn đề sử dụng loại đo lường nào cũng gắn với
phương pháp đánh giá, phổ biến hơn cả, các thang đo lường chủ quan thường được
sử dụng trong các nghiên cứu kết hợp sử dụng phương pháp phân tích thứ bậc
(Analytic Hierachy Process-AHP) hay phân tích mạng (Analytic Network
Process-ANP), thực chất phương pháp phân tích mạng là phương pháp tổng quan của
AHP, một công cụ hỗ trợ ra quyết định đa tiêu chuẩn được giới thiệu bởi Saaty
(1980, 1996) để phân chia một vấn đề phức tạp thành một mạng lưới có hệ thống.
Bộ công cụ thang đo tính bền vững – AHP
đã được sử dụng trong các nghiên cứu của García-Melón (2012), Lin (2012), Uzun
(2015). Bên cạnh đó các nghiên cứu sử dụng thang đo chủ quan cũng thường được kết
hợp một phương pháp tranh luận là Delphi, sự thảo luận có bài bản này diễn ra
giữa các chuyên gia nhằm lựa chọn các tiêu chí cho việc đánh giá sự bền vững.
Trong khi đó, các nghiên cứu sử dụng thang đo khách quan lại sử dụng dữ liệu là
các chỉ số khách quan và sử dụng một số công cụ khác khá phức tạp như AMOEBA
(Ko, 2001), phương pháp phân tích thành phần chính (Blancas, 2009), dấu chân
sinh thái (LI, 2011), mô hình tuyến tính tích lũy (Azizi, 2011),…
Các nghiên cứu của Việt Nam thường không sử dụng thang đo
rõ ràng để đo lường mức độ bền vững mà chỉ dừng lại ở phân tích mô tả và đưa ra
đánh giá dựa trên một số tiêu chí để kết luận về tính bền vững (Bạch Thị Lan
Anh, 2011; Trịnh Kim Liên, 2013; Châu Quốc Tuấn, 2014). Trong nghiên cứu của La
Nữ Ánh Tuyết (2011), tác giả đã xác định được bộ tiêu chí đánh giá có cơ sở và
sử dụng thang đo khách quan, tuy nhiên chỉ áp dụng thang đánh giá cho từng tiêu
chí và kết luận được tính bền vững cho từng tiêu chí đó.
1.2.
Hạn
chế của các nghiên cứu trước và điểm mới của nghiên cứu này
Thứ nhất, về
địa bàn nghiên cứu, bản Lác (Mai Châu) được nhìn nhận là một trong những mô
hình du lịch dựa vào cộng đồng thành công tại Việt Nam, không chỉ là điểm đến
du lịch hấp dẫn mà còn đáp ứng được các tiêu chí du lịch bền vững và vận hành
hiệu quả (Nguyễn Thị Hường, 2011; Đào Ngọc Anh, 2016). Tuy nhiên, chưa có
nghiên cứu nào được thực hiện để đánh giá mô hình du lịch bản Lác một cách bài
bản và căn cứ vào các phương pháp định lượng để rút ra kết luận về tính bền vững
tại đây. Hầu hết việc đề cập đến tính bền vững của mô hình này đều nằm trong
các nghiên cứu đánh giá chung phát triển du lịch cộng đồng đã được thực hiện từ
khá lâu (Bùi Thanh Hương và cộng sự, 2007). Trong nghiên cứu này mặc dù có sự
tìm hiểu qua nhiều khía cạnh khác nhau nhưng tác giả chỉ nhìn nhận một cách chủ
quan và thiếu cơ sở đánh giá chặt chẽ và và không kết luận được về mức độ bền vững
tại đây. Nghiên cứu này sẽ áp dụng một cách thức đánh giá có bài bản và căn cứ
để kết luận về tính bền vững, đồng thời chỉ ra các khía cạnh thiếu bền vững của
mô hình du lịch vốn được coi là thành công này.
Thứ hai,
về phương pháp đánh giá, nghiên cứu kế thừa bộ công cụ đánh giá thang đo tính bền vững – AHP đã được
dùng trong các nghiên cứu của García-Melón (2012), Lin (2012) và Uzun (2015)
nhưng được đơn giản hóa giúp cho việc đánh giá trở nên ít phức tạp hơn. Như
trong nghiên cứu của Lin (2012) để xác định mức độ bền vững qua một giá trị số
(điểm bền vững) cần phải sử dụng kết hợp lý thuyết mờ (Fuzzy Theory) nhưng lý
thuyết này khá phức tạp về mặt toán học. Vì vậy nhóm nghiên cứu sử dụng thang
đánh giá 5 điểm (đã được ứng dụng trong nghiên cứu của D. Rio và cộng sự, 2012)
kết hợp với việc đánh trọng số cho các tiêu chí bằng AHP để xác định điểm bền vững
cho cả mô hình, cách làm này cũng dựa trên cách tính giá trị bền vững của thước
đo sự bền vững (Barometer of Sustainability) của IUCN (1996). Thêm vào đó, tại
Việt Nam phương pháp AHP đã được sử dụng khá rộng rãi trong các nghiên cứu và
thực hành để xác định phương án ra quyết định tối ưu trong rất nhiều lĩnh vực
kinh tế, xã hội, quản lý,.. nhưng rất khó tìm được nghiên cứu nào áp dụng
phương pháp này để đánh giá tính bền vững của du lịch, trong khi đó nó đã được ứng
dụng ở nhiều quốc gia khác.
Thứ ba,
về thang đo đánh giá tính bền vững, nghiên cứu này lần đầu đưa ra một hệ thống
chỉ số (biến đo lường) chủ quan dựa trên tổng hợp có chọn lọc từ các nghiên cứu
trước, kết hợp nghiên cứu thực địa để đánh giá mức độ bền vững của du lịch bản
Lác về phương diện cộng đồng địa phương, kết quả nghiên cứu cho thấy thang đo
có độ tin cậy cao và phát hiện được những vấn đề đặc trưng tại địa bàn nghiên cứu.
Thang đo này có thể được sử dụng để tiếp tục đánh giá tính bền vững của địa
phương trong tương lai.
CHƯƠNG
2: CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN LĨNH VỰC ĐỀ TÀI
2.1.1. Sự
hoàn thiện quan niệm phát triển bền vững
Quan
niệm phát triển bền vững ra đời và hoàn thiện trong một khoảng thời gian tương
đối dài, mà điểm xuất phát ban đầu là sự quan tâm đến mối quan hệ giữa phát triển
kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái. Ngay từ đầu những năm 60 của thế kỷ
XX, khi việc sử dụng thuốc trừ sâu DDT ở Mỹ gây nên những hiểm họa đối với môi
trường tự nhiên bị tiết lộ qua cuốn sách “Mùa xuân câm lặng” của nữ văn sĩ
Rachel Carson (Mỹ - 1962) thì nhận thức của người dân Mỹ về môi trường đã thay
đổi, làm khởi động các phong trào bảo vệ môi trường và góp phần thúc đẩy các
chính sách về môi trường của đất nước này.
Tiếp
đến năm 1968, Câu lạc bộ Rome- một tổ chức phi chính phủ ra đời với mục đích hỗ
trợ cho việc nghiên cứu “Những vấn đề các thế giới” bao gồm các lĩnh vực chính
trị, văn hóa, xã hội, môi trường và công nghệ trên toàn cầu với tầm nhìn dài hạn.
Tổ chức này đã tập hợp những nhà lãnh đạo của các quốc gia trên thế giới. Trong
nhiều năm, câu lạc bộ Rome đã công bố, một số lượng lớn các báo cáo, bao gồm cả
bản báo cáo Giới hạn của sư tăng trưởng- được xuất bản năm 1972- đề cập tới hậu
quả của việc tăng dân số quá nhanh, sự hữu hạn của các nguồn tài nguyên… Có thể
nói thập niên 70 của thế kỷ XX là thập niên diễn ra nhiều hoạt động của Liên hợp
quốc hướng vào vấn đề bảo vệ môi trường
trong quá trình phát triển. Năm 1970, UNESCO thành lập Chương trình Con người
và Sinh quyển, với mục tiêu là phát triển cơ sở khoa học cho việc sử dụng hợp
lý và bảo tồn các môi trường. Đến năm 1972, Hội nghị của Liên hợp quốc (LHQ) về
Con người và Môi trường được tổ chức tại Stockholm (Thụy Điển) được đánh giá là
hành động đầu tiên đánh dấu sự nỗ lực chung của toàn thể nhân loại, nhằm giải
quyết các vấn đề về môi trường.
Năm
1980, tiếp theo Hội nghị Stockholm, các tổ chức bảo tồn như Hiệp hội Bảo tồn
Thiên nhiên Thế giới (IUCN), Chương Môi trường đưa ra “Chiến lược bảo tồn thế
giới”. Chiến lược này thúc giục các nước soạn thảo các chiến lược bảo tồn quốc
gia của mình. Từ khi Chiến lược bảo tồn thế giới được công bố tới nay, đã có
trên 60 chiến lược bảo tồn quốc gia được phê duyệt. Trong chiến lược này, thuật
ngữ “Phát triển bền vững” lần đầu tiên được nhắc tới, tuy nhiên mới chỉ nhấn mạnh
ở góc độ bền vững sinh thái. Tiếp theo Chiến lược này, một công trình khoa học
có tiêu đề “Cứu lấy Trái Đất- Chiến lược cho cuộc sống bền vững “ đã được IUCN,
UNEP và WWF soạn thảo và công bố (1991)
Năm
1987, Ủy ban Quốc tế về Môi trường và Phát triển xuất bản báo cáo “Tương lai của
chúng ta” mà ngày nay thường gọi là Brundtland. Bản báo cáo này lần đầu tiên
công bố chính thức thuật ngữ “Phát triển bền vững”, đưa ra sự định nghĩa cũng
như một cái nhìn mới về cách hoạch định các chiến lược phát triển lâu dài. Bản
báo cáo đã góp phần tích cực vào việc phổ cập khái niệm phát triển bền vững
trên quy mô toàn cầu, là điểm khởi đầu cho nhiều nghiên cứu tiếp theo nhằm làm
sáng tỏ thêm thuật ngữ phát triển bền vững.
Năm
1992, Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc (UNCED) (Hay còn gọi
là Hội nghị thượng đình về Trái đất) được tổ chức tại Rio de Janeiro (Brazil).
Tại hội nghị, “Phát triển bền vững” được định nghĩa một cách chính thức. Tại
đây, các đại biểu tham gia đã thống nhất những nguyên tắc cơ bản và phát động một
chương trình hành động vì sự phát triển bền vững có tên Chương trình Nghị sự 21 (Agenda 21).
Chương trình Nghị sự 21 về Phát triển bền vững đã trở thành chiến lược phát triển
của toàn cầu trong thế kỷ XXI, và “Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ”, với 8 nội
dung (xóa đói, giảm nghèo; phổ cập giáo dục tiểu học; thúc đẩy bình đẳng giới,
đồng thời nâng cao quyền lợi của nữ giới; giảm tỷ lệ trẻ em tử vong; cải thiện
và đảm bảo sức khỏe sản phụ; đấu tranh với các bệnh tật như HIV, sốt xuất huyết;
bảo vệ môi trường; thúc đẩy phát triển hợp tác toàn cầu) đã được tập trung thực
hiện.
Từ
năm 2002, nội dung “Phát triển bền vững” mang tính bao quát trên phạm vi toàn cầu
trở thành mục tiêu phấn đấu của toàn nhân loại, cũng như của từng quốc gia, từng
dân tộc và từng nhóm cộng đồng.
2.1.2.
Khái niệm phát triển bền vững
Khái
niệm “Phát triển bền vững” (PTBV) xuất hiện trong phong trào “Bảo vệ môi
trường” (BVMT) từ những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ XX, từ đó đến nay
đã có nhiều định nghĩa về phát triển bền vững được đưa ra, như:
– Phát triển bền vững là sự phát triển kinh tế – xã hội lành
mạnh, dựa trên việc sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên và BVMT, nhằm đáp ứng nhu
cầu hiện tại nhưng không làm ảnh hưởng bất lợi cho các thế hệ mai sau.
– Phát triển bền vững là sự phát triển kinh tế – xã hội với
tốc độ tăng trưởng cao, liên tục trong thời gian dài dựa trên việc sử dụng có
hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên mà vẫn bảo vệ được môi trường sinh thái.
Phát triển kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội hiện tại, song
không làm cạn kiệt tài nguyên, để lại hậu quả về môi trường cho thế hệ tương
lai.
– Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện
tại mà không làm thương tổn đến khả năng của các thế hệ tương lai đáp ứng nhu
cầu của họ.
Năm 1987,
trong Báo cáo “Tương lai của chúng ta” (Our common future) của Hội đồng Thế giới
về Môi trường và Phát triển (WCED) của Liên hợp quốc, “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện
tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”.
Định nghĩa này được nhiều tổ chức và quốc gia trên thế giới thừa nhận và sử dụng
rộng rãi. Tuy nhiên định nghĩa này thiên về đưa ra mục tiêu, yêu cầu cho sự
PTBV, mà chưa nói đến bản chất các quan hệ nội tại của quá trình phát triển bền
vững.
Ngân hàng
Phát triển châu Á (ADB) đã đưa ra định nghĩa cụ thể hơn, đó là: “Phát triển bền vững là một loại hình phát
triển mới, lồng ghép một quá trình sản xuất với bảo toàn tài nguyên và nâng cao
chất lượng môi trường. Phát triển bền vững cần phải đáp ứng các nhu cầu của thế
hệ hiện tại mà không phương hại đến khả năng của chúng ta đáp ứng các nhu cầu của
các thế hệ tương lai”. Định nghĩa này đã đề cập cụ thể hơn về mối quan hệ
ràng buộc giữa sự đáp ứng nhu cầu hiện tại với khả năng đáp ứng nhu cầu tương
lai, thông qua lồng ghép quá trình sản xuất với các biện pháp bảo toàn tài
nguyên, nâng cao chất lượng môi trường. Tuy vậy, định nghĩa này vẫn chưa đề cập
được tính bản chất của các quan hệ giữa các yếu tố của phát triển bền vững và
chưa đề cập đến các nhóm nhân tố cụ thể mà quá trình phát triển bền vững phải
đáp ứng (tuân thủ) cùng một lúc, đó là nhóm nhân tố tạo ra tăng trưởng kinh tế,
nhóm nhân tố tác động thay đổi xã hội, bao gồm thay đổi cả văn hoá và nhóm nhân
tố tác động làm thay đổi tài nguyên, môi trường tự nhiên.
Nội hàm về
phát triển bền vững được tái khẳng định ở Hội nghị Rio- 92 và được bổ sung,
hoàn chỉnh tại hội nghị Johnannesburg-2002: “Phát
triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài
hòa giữa ba mặt của sự phát triển, đó là: phát triển kinh tế, công bằng xã hội
và bảo vệ môi trường.” Ngoài ba mặt chủ yếu này, có nhiều người còn đề cập
tới những khía cạnh khác của phát triển bền vững như chính trị, văn hóa, tinh
thần. dân tộc… và đòi hỏi phải tính toán và cân đối chúng trong hoạch định các
chiến lược và chính sách phát triển kinh tế- xã hội cho từng quốc gia, từng địa
phương cụ thể.
Như vậy, có
thể định nghĩa: “Phát triển bền vững là
phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả
năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài
hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trưởng.”
2.1.3. Các mô hình phát triển bền vững
Có nhiều lý
thuyết, mô hình mô tả nội dung của phát triển bền vững. Theo Jacobs và Sedlera,
thì phát triển bển vững là kết quả của các tương tác qua lại và phụ thuộc lẫn
nhau của ba hệ thống chủ yếu của thế giới: Hệ thống kinh tế (hệ sản xuất và
phân phối sản phẩm; hệ thống xã hội (quan hệ của con người trong xã hội); hệ
thống tự nhiên (bao gồm các hệ sinh thái tự
nhiên và tài nguyên thiên nhiên, các thành phần môi trường của Trái Đất). Trong
mô hình này, sự phát triển bền vững không cho phép vì sự ưu tiên của hệ này dễ
gây ra sự suy thoái và tàn phá đối với hệ khác, hay phát triển bển vững là sự
dung hoà các tương tác và thoả hiệp giữa ba hệ thống chủ yếu trên.
Theo mô hình của ngân hàng thế giới. phát triển bền vững được hiểu là sự phát triển kinh tế xã hội để đạt được đồng thời các mục tiêu kinh tế (tăng trưởng kinh tế, công bằng trong phân phối thu nhập, hiệu quả kinh tế của sản xuất cao), mục tiêu xã hội (công bằng dân chủ trong quyền lợi và nghĩa vụ xã hội), mục tiêu sinh thái (báo đảm cân bằng sinh thái và bảo thái tự nhiên nuôi dưỡng con người).
Hình 2.2: Mô hình phát triển bền
vững của ngân hàng thế giới
Trong mô hình của Hội đồng về Môi trường và phát triển bền vững thế giới (WCED) 1987, thì tập trung trình bày quan niệm phát triển bền vững theo các lĩnh vực như kinh tế, chính trị,hành chính, công nghệ, quốc tế, sản xuất, xã hội.
Còn trong mô hình của Villen 1990
thì trình bày các nội dung cụ thể để duy trì sự cân bằng của mối quan hệ kinh
tế – sinh thái – xã hội trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của các quốc
gia.
Hình 2.3: Mô hình phát triển bền
vững kiểu ba vòng tròn
Nội dung phát triển bền vững được xã định bao gồm ba trụ cột:
– Bền vững về kinh tế: Một hệ thống
bến vững về kinh tế phải có thể tạo ra hàng hoá và dịch vụ một cách liên tục, với mức độ
có thể kiểm soát của chính phủ và nợ nước ngoài, tránh sự mất cân đối giữa các
khu vực làm tổn hại đến sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch
vụ.
– Bền vững về xã hội: Một hệ thống
bền vững về mặt xã hội phải đạt được sự công bằng trong phân phối, cung cấp đầy
đủ các dịch vụ xã
hội bao gồm y tế, giáo dục, bình đẳng giới, sự tham gia và trách nhiệm chính
trị của mọi công dân.
– Bền vững về môi trường: Một hệ
thống bền vững về môi trường phải duy trì nền tảng nguồn lực ổn định, tránh
khai thác quá mức các hệ thống nguồn lực tái sinh hay những vận động tiềm ẩn
của môi trường và việc khai thác các nguồn lực không tái tạo không vượt quá mức
độ đầu tư cho sự thay thế một cách đầy đủ. Điều này bao gồm việc duy trì sự đa
dạng sinh học, sự ổn định khí quyển và các hoạt động sinh thái khác mà thường
không được coi như các nguồn lực kinh tế.
Ba
trụ cột của phát triển kinh tế nêu trên là mục tiêu cần đạt được trong quá
trình phát triển, đồng thời là ba nội dung hợp thành quá trình hát triển trong
điều kiện hiện đại. Sự phát triển hiện đại không chỉ là sự phát triển với nền
kinh tế thị trường hiện đại, với sự tác động mạnh mẽ của tiến bộ khoa học và
công nghệ, mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế mà còn bao hàm một nội dung mới-
phát triển bền vững cũng có nghĩa là không chỉ xác lập những cơ sở, điều kiện
cần thiết đối với việc giải quyết những mâu thuẫn vốn có của tiến trình kinh tế
thị trường- công nghiệp trong sự phát triển cổ điển, giải quyết mâu thuẫn giữa
phát triển kinh tế- xã hội và môi trường mà còn phải bao gồm nội dung bền vững.
2.1.4. Bộ tiêu chí phát triển bền vững
Hiện
nay, lý thuyết phát triển bền vững đang được các quốc gia, các tổ chức quốc tế
và khu vực quan tâm nghiên cứu, phát triển thành hệ thống lý luận vừa có tính
toàn cầu, tính quốc gia, vừa mang tính địa phương. Các chương trình phát triển
bền vững đã được thực hiện từ cấp độ cộng đồng ở hầu hết các nước đang phát
triển trên thế giới với những chỉ tiêu và mục tiêu định lượng để đánh giá chất
lượng cuộc sống và tiến bộ vươn tới cấp độ bền vững. Tuy nhiên việc đưa ra được
bộ tiêu chí để “đo lường” sự phát triển bền vững trên phạm vi cả nước cũng như
tại các địa phương vẫn chưa đạt được sự thống nhất và đang được nghiên cứu ở
trong và ngoài nước.
Bộ
tiêu chí phát triển bền vững có thể phản ánh các khía cạnh khác nhau như:
(1) Các chỉ tiêu trạng thái (phản ánh trạng thái
của hệ thống kinh tế xã hội tại một thời điểm nào đó);
(2) Các chỉ tiêu mục tiêu (bao gồm các chỉ tiêu
phản ánh trạng thái mong muốn trong tương lai);
(3) Các chỉ tiêu áp lực (bao gồm các chỉ tiêu phản
ánh áp lực trực tiếp tới các vấn đề môi trường như tiếng ồn, khí thải CO2);
(4) Các chỉ tiêu động lực (phản ánh các áp lực lên
môi trường do phát triển công nghiệp, tăng dân số,…)
(5) Các chỉ tiêu ảnh hưởng (phản ánh các tác động
đến sự thay đổi trạng thái) và các chỉ tiêu hưởng ứng (phản ánh nỗ lực của xã
hội cũng giải quyết các vấn đề đặt ra).
Đến
nay đã có nhiều hệ thống tiêu chí, chỉ tiêu được đề xuất, bảo đảm phản ánh tổng
hòa nhiều tiêu chí thành phần. Xét về mặt nội dung, bộ tiêu chí cần bao gồm ít
nhất 5 khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường, văn hóa (bao gồm cả các vấn đề
phát triển con người) và thể chế làm “thước đo” cho phát triển bền vững. Điều
quan trọng là các khía cạnh này phải liên kết với nhau như một thể thống nhất
mới bảo đảm phát triển bền vững. Khâu gắn kết đó được bảo đảm chính là hệ thống
thể chế được xây dựng mang tính hệ thống và thực thi nghiêm chỉnh, nhất là khi
nhiều tác động đến phát triển bền vững khó mà đánh giá trong một thời gian
ngắn.
Bộ
chỉ tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc xác định theo các chủ đề trên
bốn lĩnh vực, hình thành nên 58 chỉ tiêu cụ thể:
Bền vững về mặt xã hội: bao gồm 6 chủ đề về công bằng, y
tế, giáo dục, nhà ở, an ninh và dân số với 19 chỉ tiêu cụ thể: (1) Phần trăm
dân số sống dưới ngưỡng nghèo; (2) Chỉ số bất bình đẳng GINI; (3) Tỷ lệ thất
nghiệp; (4) Tỷ lệ lương trung bình của nữ so với nam giới; (5) Tình trạng dinh
dưỡng của trẻ em; (6) Tỷ lệ tử vong của trẻ dưới 5 tuổi; (7) Tuổi thọ; (8) Phần
trăm dân số có thiết bị vệ sinh phù hợp; (9) Phần trăm dân số được sử dụng nước
sạch; (10) Phần trăm dân số tiếp cận với các dịch vụ y tế cơ bản; (11) Tiêm
chủng phòng ngữa các bệnh lây nhiễm cho trẻ em; (12) Tỷ lệ phổ biến về phòng
tránh thai; (13) Phổ cập tiểu học đối với trẻ em; (14) Tỷ lệ người trưởng thành
học hết cấp hai; (15) Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành; (16) Diện tích nhà
ở (sàn) bình quân đầu người; (17) Số tội phạm trên 100.000 dân; (18) Tốc độ
tăng dân số; (19) Dân số thành thị chính thức và cư trú không chính thức.
Bền vững về môi trường: bao gồm 7 chủ
đề về không khí, đất, đại dương biển và bờ biển, nước sạch và đa dạng sinh học
với 19 tiêu chí cụ thể: (20) Phát thải khí nhà kính; (21) Mức độ tiêu thụ các
chất gây hại ở tầng ozon; (22) Nồng độ các chất gây ô nhiễm không khí ở khu vực
đô thị; (23) Đất canh tác và diện tích cây lâu năm; (24) Sử dụng phân hóa học;
(25) Sử dụng thuốc trừ sâu; (26) Tỷ lệ che phủ rừng; (27) Cường độ khai thác
gỗ; (28) Đất bị sa mạc hó; (29) Diện tích thành thị chính thức và khống chính
thức; (30) Mật độ tảo trong biển; (31) Phần trăm dân số sống ở vùng duyên hải;
(32) Sản lượng đánh bắt hàng năm; (33) Mức khai thác nguồn nước ngầm và nước
mặt trên tổng trữ lượng nước; (34) Hàm lượng BOD trong nước; (35) Nồng độ
coliform trong nước sạch; (36) Diện tích hệ sinh thái chủ yếu được lựa chọn;
(37) Diện tích khu bảo tồn so với tổng diện tích; (38) Sự đa dạng của giống
loài được lựa chọn.
Bền vững kinh tế bao gồm 2 chủ đề về tăng trưởng và
cơ cấu kinh tế, xu hướng sản xuất và tiêu thụ với 14 chỉ tiêu cụ thể: (39) GDP
bình quân đầu người; (40) Tỷ lệ đầu tư trong GDP; (41) Cán cân thương mại hàng
hóa và dịch vụ; (42) Tỷ lệ nợ trong GNI; (43) Tổng viện trợ ODA hoặc nhận viện
trợ ODA so với GNI; (44) Mức độ sử dụng nguyên vật liệu; (45) Tiêu thụ năng
lượng bình quân đầu người hàng năm; (46) Tỷ lệ tiêu dùng nguồn năng lượng có
thể tái sinh; (47) Mức độ sử dụng năng lượng; (48) Chất thải rắn của công
nghiệp và đô thị; (49) Chất thải độc hại; (50) Chất thải phóng xạ; (51) Chất
thải tái sinh; (52) Khoảng cách đi lại tính trên đầu người theo phương tiện vận
tải.
Thể chế phát triển bền vững gồm 2 chủ
đề khung thể chế và năng lực thể chế, được cụ thể hóa thành 6 chỉ tiêu: (53)
Chiến lược phát triển bền vững quốc gia; (54) Thực thi các công ước quốc tế đã
ký; (55) Số lượng người truy cập internet/1000 dân; (56) Đường điện thoại
chính/1000 dân; (57) Đầu tư cho nghiên cứu và phát triển tinh theo % GDP; (58)
Thiệt hại về người và của do các thảm họa thiên nhiên.
2.2. Du lịch bền vững và Phát triển
du lịch bền vững
2.2.1.1.
Lịch sử ra đời thuật ngữ
Du
lịch xuất hiện từ khi các hoạt động trao đổi, buôn bán, truyền giáo, thám hiểm
các vùng đất mới được hình thành. Từ trước Công nguyên, du lịch đã xuất hiện,
xuất phát điểm từ Địa Trung Hải. Ban đầu việc cung ứng các dịch vụ nhằm thỏa
mãn nhu cầu của du khách còn mang tính sơ khai và chỉ chú trọng đến lợi nhuận
mà không quan tâm đến sự tác động xấu của du lịch đến môi trường. Từ đó xuất hiện
hình thức du lịch đầu tiên trong lịch sử và còn tồn tại cho tới ngày nay “du lịch
thương mại” hay “du lịch ồ ạt” (mass tourism).
Đầu
1980, xuất hiện thuật ngữ “các loại hình du lịch thay thế” (alternative
tourism) (alternative tourism), để chỉ các loại hình du lịch có quan tâm đến
môi trường bao gồm “du lịch xanh”, “du lịch mềm”, “du lịch có trách nhiệm”. Từ
năm 1975 đến năm 1980, Krippendorf và Jungk là những nhà khoa học đầu tiên cảnh
báo về những suy thoái sinh thái do hoạt động du lịch gây ra. Họ đã đưa ra khái
niệm “du lịch rắn” (hard tourism) để chỉ loại hình du lịch ồ ạt và “du lịch mềm”
(soft tourism) để chỉ một chiến lược mới tôn trọng môi trường. Đến năm 1995,
Becker tổng kết và đưa ra đặc trưng của hai loại hình du lịch rắn và mềm như
sau:
Bảng
2.1: Du lịch rắn và du lịch mềm
Du lịch rắn
(hard tourism) |
Du lịch mềm
(soft tourism) |
1. Phát
triển không có qui hoạch 2. Mỗi
cộng đồng du lịch tự qui hoạch cho họ 3. Xây
dựng tràn lan và manh mún 4. Xây
dựng cho một nhu cầu riêng biệt 5. Du
lịch nằm trong tay các nhà kinh doanh du lịch bên ngoài 6. Phát
triển tất cả các phương cách để khai thác tối đa khả năng của đối tượng du lịch |
1. Trước hết phải qui hoạch sau đó mới phát triển 2. Qui hoạch tổng thể 3. Xây dựng tập trung để tiết kiệm không gian 4.
Xác định các giới hạn cho sự mở rộng 5. Cộng đồng bản địa tham gia và lập quyết định 6. Phát triển tất cả các phương cách (loại
hình) nhưng chỉ ở mức độ vừa phải, không khai thác tối đa đối tượng du lịch |
Nguồn: Becker (1995)
Năm 1996, xuất hiện một khái niệm mới
là “du lịch bền vững” (sustainable tourism), ủng hộ và chủ trương phát triển du
lịch mà ít ảnh hưởng xấu tới môi trường trên cơ sở cải tiến và nâng cấp từ khái
niệm “du lịch mềm” của Krippedorf và Jungk.
2.2.1.2. Khái niệm du lịch
bền vững
Theo
giáo sư Berneker- một chuyên gia hàng đầu về du lịch thế giới đã nhận định: “Đối
với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa.”
Theo
“Luật Du lịch Việt
Theo
Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế (1996): “Du lịch bền vững là việc đáp ứng
các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch mà vẫn bảo đảm những khả năng
đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du lịch tương lai”.
Theo
Ủy ban Môi trường và Phát triển Quốc tế (1987): “Du lịch bền vững là một quá
trình nhằm đáp ứng những nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng
của những thế hệ mai sau”.
Từ
những khái niệm nêu trên, ta có thể hiểu: “Du lịch bền vững là sự phát triển du
lịch có sự quan tâm đến việc bảo tồn các giá trị của tài nguyên du lịch đồng thời
giảm thiểu đến mức thấp nhất những tác hại xấu đến môi trường, kinh tế, văn
hóa- xã hội nhằm phục vụ nhu cầu hiện tại của du khách và điểm du lịch mà không
làm phương hại đến nhu cầu của tương lai”.
Du
lịch bền vững là phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng những nhu cầu hiện
tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo
tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc phát triển các hoạt động du lịch
trong tương lai…(Nguyễn Đình Hòe và Vũ Văn Hiếu, Du lịch bền vững, 2001). Du lịch
bền vững hướng đến việc quản lý các nguồn tài nguyên sao cho các nhu cầu kinh tế
xã hội đều được thỏa mãn trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hóa, các đặc điểm
sinh thái, sự đa dạng sinh học và hệ thống hỗ trợ đời sống.
Như
vậy, du lịch bền vững là phát triển du lịch trong điều kiện bảo tồn và cải thiện
các mặt môi trường, kinh tế, văn hóa và xã hội. Vì vậy, du lịch bền vững cần:
-
Sử
dụng tài nguyên môi trường một cách tối ưu để những tài nguyên này hình thành một
yếu tố quan trọng trong phát triển du lịch, duy trì những quá trình sinh thái
thiết yếu và hỗ trợ cho việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học.
-
Tôn
trọng bản sắc văn hóa- xã hội của các cộng đồng ở cấc điểm đến, bảo tồn di sản
văn hóa và những giá trị truyền thống trong cuộc sống của họ và tham gia vào
quá trình hiểu biết và chấp thuận các nền văn hóa khác.
-
Bảo
đảm những hoạt động kinh tế sống động lâu dài, đem lại lợi ích kinh tế, xã hội
cho tất cả mọi thành viên bao gồm những công nhân viên chức có thu nhập cao hay
những người có thu nhập và góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo.
2.2.2. Phát triển du lịch
bền vững
Các
vấn đề về phát triển bền vững được đưa ra từ những năm 1980, tiến hành nghiên cứu
về vấn đề này, nhiều nghiên cứu khoa học được thực hiện nhằm đưa ra các khía cạnh
liên quan đến phát triển bền vững. Từ những năm 1990, các nhà khoa học trên thế
giới đã đề cập nhiều đến việc phát triển du lịch với mục đích đơn thuần về kinh tế đang đe dọa hủy hoại môi trường sinh thái,
đến nền văn hóa bản địa. Hậu quả của các tác động ấy sẽ lại ảnh hưởng đến bản
thân sự phát triển lâu dài của ngành du lịch. Nhưng định nghĩa phát triển du lịch bền vững không chỉ tập trung vào việc bảo
vệ môi trường mà còn tập trung vào việc duy trì những văn hóa của địa phương và
đảm bảo việc phát triển kinh tế, mang lại lợi ích công bằng cho các nhóm đối tượng
tham gia. Phát triển du lịch bền vững được coi là một nhánh của Phát triển bền
vững, có nhiều định nghĩa đã được đưa ra và nhóm nghiên cứu đưa ra một số khái
niệm đã đưa ra:
Theo
Hội nghị ủy ban Thế giới về Phát triển và Môi trường (hay Ủy ban Brundtland)
xác định năm 1987: “Hoạt động phát triển du lịch bền vững là hoạt động phát triển
ở một khu vực cụ thể sao cho nội dung, hình thức và quy mô là thích hợp và bền
vững theo thời gian, không làm suy thoái môi trường, làm ảnh hưởng đến khả năng
hỗ trợ.”
Theo
tổ chức du lịch thế giới (WTO): “Phát triển
du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu
về hiện tại của du khách và người dân bản địa, trong khi vẫn quan tâm đến việc
bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho phát triển du lịch trong tương
lai”. Phát triển du lịch bền vững là đáp ứng đầy đủ nhất, tiện nghi nhất
các nhu cầu của khách du lịch, tạo sức hút du khách đến các vùng, điểm du lịch
ngày nay đồng thời bảo vệ và nâng cao chất lượng cho tương lai.
Cho
đến nay đa số ý kiến các chuyên gia trong lĩnh vực du lịch và các lĩnh vực liên
quan khác ở Việt Nam đều cho rằng: “Phát
triển du lịch bền vững là hoạt động khai thác có quản lý các giá trị tự nhiên
và nhân văn nhằm thỏa mãn các nhu cầu đa dạng của khách du lịch, có quan tâm đến
các lợi ích kinh tế dài hạn trong khi vẫn đảm bảo sự đóng góp cho bảo tồn và
tôn tạo các nguồn tài nguyên, duy trì được sự toàn vẹn về văn hóa để phát triển
hoạt động du lịch trong tương lai; cho công tác bảo vệ môi trường và góp phần
nâng cao mức sống của cộng đồng địa phương”. Đây cũng là khái niệm mà nhóm
tác giả sử dụng để làm căn cứ thực hiện nghiên cứu.
2.2.3. Vai trò và ý
nghĩa của phát triển du lịch bền vững
Du lịch là một trong những công nghệ tạo nhiều lợi tức
nhất cho đất nước. Du lich có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp
chúng ta đạt các Mục Tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (Millennium Development
Goals) mà Liên Hợp Quốc đã đề ra từ năm 2000, đặc biệt là các mục tiêu xóa đói
giảm nghèo, bình đẳng giới tính, bền vững môi trường và liên doanh quốc tế để
phát triển.
Chính vì vậy mà du lịch bền vững (sustainable tourism) là
một phần quan trọng của phát triển bền vững (sustainable development) của Liên
Hợp Quốc và của Định hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương
trình Nghị sự 21 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
Phát triển du lịch bền vững là một chủ đề được thảo luận
rất nhiều ở các hội nghị và diễn đàn lớn nhỏ trên toàn thế giới. Mục đích chính
của phát triển bền vững là để 3 trụ cột của du lịch bền vững - Môi trường, Văn
hóa xã hội và Kinh tế - được phát triển một cách đồng đều và hài hòa.
Những lí do đi sâu vào chi tiết để giải thích tại sao lại
cần phát triển du lịch bền vững thì có nhiều, nhưng có thể thấy rất rõ ở 3 yếu
tố từ định nghĩa trên:
Thứ nhất: Phát triển du lịch bền vững
giúp bảo vệ môi trường sống. Vì bảo vệ môi trường sống không chỉ đơn giản là
bảo vệ các loài động thực vật quý hiếm sống trong môi trường đó, mà nhờ có việc
bảo vệ môi trường sống mà con người được hưởng lợi từ đó: Không bị nhiễm độc
nguồn nước, không khí và đất. Đảm bảo sự hài hòa về môi trường sinh sống cho
các loài động thực vật trong vùng cũng là giúp cho môi trường sống của con
người được đảm bảo.
Thứ hai: Phát triển du lịch bền vững còn
giúp phát triển kinh tế, ví dụ, từ việc khai thác các đặc sản văn hóa của vùng,
người dân trong vùng có thể nâng cao đời sống nhờ khách du lịch đến thăm quan,
sử dụng những dịch vụ du lịch và sản phẩm đặc trưng của vùng miền, của
vùng. Phát triển du lịch bền vững cũng giúp người làm du lịch, cơ quan địa
phương, chính quyền và người tổ chức du lịch được hưởng lợi, và người dân địa
phương có công ăn việc làm.
Thứ ba: Phát triển du lịch bền vững còn
đảm bảo các vấn đề về xã hội, như việc giảm bớt các tệ nạn xã hội bằng việc
cung cấp công ăn việc làm cho người dân trong vùng. Ở một cái nhìn sâu và xa
hơn, du lịch bền vững giúp khai thác nguồn tài nguyên một cách có ý thức và
khoa học, đảm bào cho các nguồn tài nguyên này sinh sôi và phát triển để thế hệ
sau, thế hệ tương lai có thể được tiếp nối và tận dụng.
Với ba lí do được đề cập đến ở bên trên, ta có thể thấy
rõ vai trò và tầm quan trọng của phát triển
du lịch bền vững trong chính sách phát triển bền vững ở Việt
2.2.4. Các tiêu chuẩn
đánh giá du lịch bền vững toàn cầu
Tiêu chuẩn du lịch bền
vững toàn cầu hướng tới 4 mục tiêu chính: hoạch định phát triển bền vững và
hiệu quả, nâng cao lợi ích kinh tế xã hội cho cộng đồng địa phương, gìn giữ di
sản văn hóa và giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực đối với môi trường. Những tiêu
chuẩn này là một phần trong các nỗ lực của cộng đồng kinh doanh du lịch trước
những thách thức toàn cầu hướng đến mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Xóa đói
giảm nghèo và bảo vệ môi trường – bao gồm cả vấn đề biến đổi khí hậu – là những
vấn đề chính được đề cập trong bộ tiêu chuẩn này.
Bắt đầu từ năm 2007,
Hiệp hội Tiêu chuẩn toàn cầu về du lịch bền vững – một liên minh với 27 tổ
chức thành viên, đã nhóm họp các nhà lãnh đạo để cùng nhau phát triển bộ tiêu
chuẩn du lịch bền vững. Trong vòng 15 tháng Hiệp hội này đã trao đổi, thảo
luận với các chuyên gia về tính bền vững của ngành du lịch và phân tích 4.500
tiêu chí của hơn 60 chứng chỉ hiện hành với sự tham gia của hơn 80.000 người
bao gồm những nhà bảo tồn, các nhà lãnh đạo ngành, các cơ quan chức năng của
chính phủ và Liên hợp quốc.
Theo
các chuyên gia, những tiêu chuẩn này chỉ là bước khởi đầu trong tiến
trình hướng đến một tiêu chuẩn chung áp dụng trong tất cả các hình thức
hoạt động của du lịch. Bộ tiêu chuẩn này chỉ đưa ra những việc nên làm, song
không chỉ ra cách thức thực hiện hay xác định tính khả thi của mục tiêu. Vì
vậy, vai trò bổ sung của việc quản lý giám sát cùng
với công cụ giáo dục truyền thông và các cách tiếp cận sẽ là
những yếu tố không thể thiếu để góp phần hoàn thiện.
(1)
Quản
lý hiệu quả và bền vững
- Các công ty du lịch cần thực thi một
hệ thống quản lý bền vững, phù hợp với quy mô và thực lực của mình để bao quát
các vấn đề về môi trường, văn hóa xã hội, chất lượng, sức khỏe và an toàn.
- Tuân thủ các điều luật và quy định
có liên quan trong khu vực và quốc tế.
- Tất cả nhân viên được đào tạo định
kỳ về vai trò của họ trong quản lý môi trường, văn hóa xã hội, sức khỏe và các
thói quen an toàn.
-
Cần đánh giá sự hài lòng của khách hàng để có các biện
pháp điều chỉnh phù hợp.
- Quảng cáo đúng sự thật và không hứa
hẹn những điều không có trong chương trình kinh doanh.
- Thiết kế và thi công cơ sở hạ tầng:
(i) Chấp hành những quy định về bảo tồn di sản tại địa phương; (ii) Tôn trọng
những di sản thiên nhiên và văn hóa địa phương trong công tác thiết kế, đánh
giá tác động, quyền sở hữu đất đai và lợi nhuận thu được; (iii) Áp dụng các
phương pháp xây dựng bền vững thích hợp tại địa phương; (iv) Đáp ứng yêu cầu
của các cá nhân có nhu cầu đặc biệt.
-
Cung cấp thông tin cho khách hàng về môi trường xung
quanh, văn hóa địa phương và di sản văn hóa, đồng thời giải thích cho khách
hàng về những hành vi thích hợp khi tham quan các khu vực tự nhiên, các nền văn
hóa và các địa điểm di sản văn hóa.
(2)
Gia tăng lợi ích kinh tế xã hội và giảm thiểu tác động
tiêu cực đến cộng đồng địa phương
- Công ty du lịch tích cực ủng hộ các
sáng kiến phát triển cơ sở hạ tầng xã hội và phát triển cộng đồng như xây dựng
công trình giáo dục, y tế và hệ thống thoát nước.
- Sử dụng lao động địa phương, có thể
tổ chức đào tạo nếu cần thiết, kể cả đối với vị trí quản lý.
- Các dịch vụ và hàng hóa địa phương
nên được doanh nghiệp bày bán rộng rãi ở bất kỳ nơi nào có thể.
-
Công
ty du lịch cung cấp phương tiện cho các doanh nghiệp nhỏ tại địa phương để phát
triển và kinh doanh các sản phẩm bền vững đựa trên đặc thù về thiên nhiên, lịch
sử và văn hóa địa phương (bao gồm thức ăn, nước uống, sản phẩm thủ công, nghệ
thuật biểu diễn và các mặt hàng nông sản).
-
Thiết
lập một hệ thống quy định cho các hoạt động tại cộng đồng bản địa hay địa
phương, với sự đồng ý và hợp tác của cộng đồng
-
Công
ty phải thi hành chính sách chống bóc lột thương mại, đặc biệt đối với trẻ em
và thanh thiếu niên, bao gồm cả hành vi bóc lột tình dục.
-
Đối
xử công bằng trong việc tiếp nhận các lao động phụ nữ và người dân tộc thiểu
số, kể cả ở vị trí quản lý, đồng thời hạn chế lao động trẻ em.
-
Tuân
thủ luật pháp quốc tế và quốc gia về bảo vệ nhân công và chi trả lương đầy đủ.
-
Các
hoạt động của công ty không được gây nguy hiểm cho nguồn dự trữ cơ bản như
nước, năng lượng hay hệ thống thoát nước của cộng đồng lân cận.
(3)
Gia
tăng lợi ích đối với các di sản văn hóa và giảm nhẹ các tác động tiêu cực
- Tuân thủ các hướng dẫn và quy định
về hành vi ứng xử khi tham quan các điểm văn hóa hay lịch sử, nhằm giảm nhẹ các
tác động từ du khách.
- Đồ tạo tác khảo cổ hay lịch sử không
được phép mua bán hay trưng bày, trừ khi được pháp luật cho phép.
- Có trách nhiệm đóng góp cho công tác
bảo tồn di tích lịch sử, văn hóa, khảo cổ và các tài sản có ý nghĩa quan trọng
về tinh thần, tuyệt đối không cản trở việc tiếp xúc của cư dân địa phương.
- Tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ của
cộng đồng địa phương khi sử dụng nghệ thuật, kiến trúc hay các di sản văn hóa
của địa phương trong hoạt động kinh doanh, thiết kế, trang trí, ẩm thực.
(4)
Gia
tăng lợi ích môi trường và giảm nhẹ tác động tiêu cực
- Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên: (i)
Ưu tiên buôn bán những sản phẩm thân thiện môi trường như vật liệu xây dựng,
thức ăn và hàng tiêu dùng; (ii) Cân nhắc khi buôn bán các sản phẩm tiêu dùng
khó phân hủy và cần tìm cách hạn chế sử dụng các sản phẩm này; (iii) Tính toán
mức tiêu thụ năng lượng cũng như các tài nguyên khác, cần cân nhắc giảm thiểu
mức tiêu dùng cũng như khuyến khích sử dụng năng lượng tái sinh; (iv) Kiểm soát
mức tiêu dùng nước sạch, nguồn nước và có biện pháp hạn chế lượng nước sử dụng.
- Giảm ô nhiễm: (i) Kiểm soát lượng
khí thải nhà kính và thay mới các dây chuyền sản xuất nhằm hạn chế hiệu ứng nhà
kính, hướng đến cân bằng khí hậu; (ii) Nước thải, bao gồm nước thải sinh hoạt
phải được xử lý triệt để và tái sử dụng; (iii) Thực thi kế hoạch xử lý chất
thải rắn với mục tiêu hạn chế chất thải không thể tái sử dụng hay tái chế; (iv)
Hạn chế sử dụng các hóa chất độc hại như thuốc trừ sâu, sơn, thuốc tẩy, thay
thế bằng các sản phẩm không độc hại, quản lý chặt chẽ các hóa chất được
sử dụng; (v) Áp dụng các quy định giảm thiểu ô nhiễm tiếng ồn, ánh sáng,
nước thải, chất gây xói mòn, hợp chất gây suy giảm tầng ozon và chất làm ô
nhiễm không khí, đất.
- Bảo tồn đa dạng sinh học, hệ sinh
thái và cảnh quan tự nhiên: (i) Các loài sinh vật hoang dã khai thác từ tự
nhiên được tiêu dùng, trưng bày hay mua bán phải tuân theo quy định nhằm đảm
bảo việc sử dụng là bền vững; (ii) Không được bắt giữ các loài sinh vật hoang
dã, trừ khi đó là hoạt động điều hòa sinh thái. Tất cả những sinh vật sống chỉ
được bắt giữ bởi những tổ chức có đủ thẩm quyền và điều kiện nuôi
dưỡng, chăm sóc chúng; (iii) Việc kinh doanh có sử dụng các loài sinh vật bản
địa cho trang trí và tôn tạo cảnh quan cần áp dụng các biện pháp ngăn ngừa các
loài sinh vật ngoại lai xâm lấn; (iv) Đóng góp ủng hộ cho hoạt động bảo tồn đa
dạng sinh học, bao gồm việc hỗ trợ cho các khu bảo tồn thiên nhiên và các khu
vực có giá trị đa dạng sinh học cao; (v) Các hoạt động tương tác với môi trường
không được có bất kỳ tác hại nào đối với khả năng tồn tại của quần xã sinh vật,
cần hạn chế, phục hồi mọi tác động tiêu cực lên hệ sinh thái cũng như có một
khoản phí đóng góp cho hoạt động bảo tồn.
2.3.
Du lịch dựa vào cộng đồng.
2.3.1. Cộng đồng và du lịch dựa vào
cộng đồng.
2.3.1.1.
Lý thuyết về cộng đồng.
Cộng
đồng là một khái niệm lý thuyết cũng như thực hành xuất hiện vào những năm 1940
tại các nước thuộc địa của Anh. Năm 1950, Liên hiệp quốc công nhận khái niệm
phát triển cộng đồng và khuyến khích các quốc gia sử dụng khái niệm này như một
công cụ để thực hiện các chương trình viện trợ quy mô lớn về kĩ thuật, phương
pháp và tài chính vào thập niên 50, 60 của thế kỷ XX.
Trước
hết, quan điểm về cộng đồng đề cập đến các yếu tố con người với phạm vi địa lý,
mối quan hệ và mục đích chung trong phát triển và bảo tồn cộng đồng đó. Theo
Keith và Ary, 1998 thì “Cộng đồng là một
nhóm người, thường sinh sống trên cùng khu vực địa lý, tự xác định mình thuộc về
cùng một nhóm. Những người trong cùng một cộng đồng thường có quan hệ huyết thống
hoặc hôn nhân và có thể thuộc cùng một nhóm tôn giáo, một tầng lớp chính trị”.
Như
vậy, mặc dù các cộng đồng có thể có nhiều cái chung, nhưng sẽ trở nên
phức tạp nếu cho rằng họ là một nhóm đồng nhất. Các cộng đồng có
thể bao gồm nhiều nhóm riêng như nông dân và thị dân, người giàu và
người nghèo, người định cư lâu và người mới định cư... Các nhóm
quyền lợi khác nhau trong một cộng đồng dường như bị các thay đổi
liên quan đến du lịch tác động đến một cách khác nhau. Các nhóm ấy
phản ứng trước những thay đổi đó như thế nào phụ thuộc vào mối quan
hệ họ hàng, tôn giáo, chính trị và các mối ràng buộc mạnh mẽ đã
được phát triển giữa các thành viên qua nhiều thế hệ. Tùy thuộc vào
một vấn đề, một cộng đồng có thể đoàn kết hay chia rẽ về tư tưởng
hay hành động (United Nation Food and Agriculture Organisation, 1990).
Khái
niệm Cộng đồng (community) là một trong những khái niệm xã hội học,
bao gồm các thực thể xã hội có cơ cấu tổ chức chặt chẽ cho đến
các tổ chức ít có cấu trúc chặt chẽ, là một nhóm xã hội có lúc
khá phân tán, được liên kết bằng lợi ích chung trong một không gian
tạm thời, dài hay ngắn như phong trào quần chúng, công chúng, khán
giả, đám đông,... Bên cạnh đó, còn có một cách nhìn nhận khác, coi
cộng đồng như một đặc thù chỉ có ở nền văn minh con người, ở đó con
người hợp tác với nhau nhờ những lợi ích chung.
Tại
Việt Nam, lần đầu tiên khái niệm phát triển cộng đồng được giới
thiệu vào giữa những năm 1950 thông qua một số hoạt động phát triển
cộng đồng tại các tỉnh phía Nam, trong lĩnh vực giáo dục. Từ ngành
giáo dục, phát triển cộng đồng chuyển sang lĩnh vực công tác xã
hội. Đến những năm 1960 - 1970, hoạt động phát triển cộng đồng được
đẩy mạnh thông qua các chương trình phát triển nông thôn của sinh viên
hay của phong trào Phật giáo.
Từ
thập niên 80 của thế kỷ trước cho đến nay, phát triển cộng đồng được
biết đến một cách rộng rãi hơn thông qua các chương trình viện trợ
phát triển của nước ngoài tại Việt Nam, có sự tham gia của người dân
tại cộng đồng như một nhân tố quyết
định để chương trình đạt được hiệu quả bền vững. Các đường lối
và phương pháp cơ bản về phát triển cộng đồng đã được triển khai
trên thực tiễn ở Việt Nam, bằng các nhân sự trong nước với cả những
thành công và thất bại. Bộ môn “phát triển cộng đồng và tổ chức
cộng đồng” được giảng dạy trong một số trường đại học ở phía Nam
với giáo trình được biên soạn như một môn cơ bản.
2.3.1.2.
Du lịch dựa vào cộng đồng.
Xuất
phát từ những nghiên cứu về lý thuyết cộng đồng, cùng với những nỗ lực nhằm
phát triển cộng đồng, nâng cao đời sống cộng đồng,các lý thuyết về du lịch cộng
đồng hay du lịch dựa vào cộng đồng đã được nghiên cứu, đề xuất và ứng dụng.
Thuật
ngữ du lịch cộng đồng (DLCĐ) xuất phát từ hình thức du lịch làng bản ngay từ những
năm 1970 ở các nước thuộc khu vực châu Âu, châu Mỹ và châu Úc. Mục đích khái niệm
này đầu tiên do du khách đưa ra. Khách du lịch tham quan các làng bản, tìm hiểu
về đời sống sinh hoạt, phong tục, tập quán, khám phá hệ
sinh thái của vùng núi non, các cuộc du ngoạn này thường được tổ chức tại
các vùng rừng núi. Phần lớn còn mang tính chất hoang dã, địa hình hiểm trở,
nhưng lại rất thưa dân cư, các điều kiện đi lại, sinh hoạt gặp rất nhiều khó
khăn. Những lúc như vậy, du khách cần tới sự giúp đỡ của những người dân bản địa
như dẫn đường khỏi bị lạc, nơi nghỉ qua đêm… Khách du lịch thường gọi những
chuyến đi đó là những chuyến đi có sự hỗ trợ của người dân địa phương. Đây
chính là tiền đề cho sự phát triển các loại hình DLCĐ như hiện nay. DLCĐ chính
thức được hình thành và phát triển mạnh mẽ tại các nước Châu Phi, Châu Âu, Châu
Mỹ, Châu Úc những năm 80 –90 của thế kỷ trước. Sau đó lan rộng sang khu vực
châu Á trong đó có các nước khu vực ASEAN như Inđônêxia, Philippin, Thái Lan,
Việt
Ngày
nay, DLCĐ được hiểu là cộng đồng địa phương tham gia vào các hoạt động kinh
doanh mang tính tự phát tại những nơi có tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân
văn hấp dẫn, các tuyến, điểm du lịch sẵn có của địa phương chứ chưa chú trọng tới
quyền lợi cộng đồng địa phương và thu hút họ tham gia vào hoạt động du lịch.Trong
nhiều trường hợp quyền lợi của các bên tham gia du lịch xấu đi và làm giảm sức
hấp dẫn cho du khách.
Từ lâu, khái niệm “du lịch cộng đồng” (DLCĐ) đã được
đề cập rộng rãi tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, cụ thể:
Theo Nicole Hausle và Wollfgang
Strasdas “Du lịch cộng đồng là một hình thái du lịch trong đó chủ
yếu là người dân địa phương đứng ra
phát triển và quản lý. Lợi ích kinh tế có được từ du lịch sẽ đọng
lại nền kinh tế địa phương” (Nicole Hausler and Wolfgang Strasdas,
Community Based Sustainable Tourism A Reader, 2000).
Ở Thái Lan khái niệm
Community-Based Tourism - Du lịch dựa vào cộng đồng được định nghĩa: “DLCĐ là loại hình du lịch được quản lý và có
bởi chính cộng đồng địa phương, hướng đến mục tiêu bền vững về mặt môi trường,
văn hóa và xã hội. Thông qua DLCĐ du khách có cơ hội tìm hiểu và nâng cao nhận
thức về lối sống của cộng đồng địa phương” (REST, 1997).
Khái niệm này cũng được nhắc đến
trong chương trình nghiên cứu của nhiều tổ chức xã hội trên thế giới. Pachamama
(Tổ chức hướng đến việc giới thiệu và bảo tồn văn hóa bản địa khu vực Châu Mỹ)
đã đưa ra quan điểm của mình về Community-Based Tourism như sau: “DLCĐ là loại hình du lịch mà du khách từ bên
ngoài đến với cộng đồng địa phương để tìm hiểu về phong tục, lối sống, niềm tin
và được thưởng thức ẩm thực địa phương. Cộng đồng địa phương kiểm soát cả những
tác động và những lợi ích thông qua quá trình tham gia vào hình thức du lịch
này, từ đó tăng cường khả năng tự quản, tăng cường phương thức sinh kế và phát
huy giá trị truyền thống của địa phương”.
Còn Istituto Oikos (Tổ chức hướng đến
việc hỗ trợ các nghiên cứu, huy động nguồn lực tài chính trong công tác bảo tồn
về mặt sinh thái tự nhiên và nhân văn cho các quốc gia đang phát triển trên thế
giới, ra đời tại Ý, 1996) lại đề cập đến nội dung của DLCĐ theo hướng: “Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch mà du
khách từ bên ngoài đến và có lưu trú qua đêm tại không gian sinh sống của cộng
đồng địa phương (thường là các cộng đồng ở nông thôn hoặc các cộng đồng nghèo
hoặc sinh sống ở những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn). Thông qua đó du
khách có cơ hội khám phá môi trường thiên nhiên hoang dã hoặc tìm hiểu các giá
trị về văn hóa truyền thống, tôn trọng tư duy văn hóa bản địa. Cộng đồng địa
phương có cơ hội thụ hưởng các lợi ích kinh tế từ việc tham gia vào các hoạt động
khám phá dựa trên các giá trị về tự nhiên và văn hóa xã hội tại khu vực cộng đồng
địa phương sinh sống”.
Trong khi Tổ chức mạng lưới du lịch
cộng đồng vì người nghèo đã nêu: “DLCĐ là
một loại hình du lịch bền vững thúc đẩy các chiến lược vì người nghèo trong môi
trường cộng đồng. Các sáng kiến của DLCĐ nhằm vào mục tiêu thu hút sự tham gia
của người dân địa phương vào việc vận hành và quản lý các dự án du lịch nhỏ như
một phương tiện giảm nghèo và mang lại thu nhập thay thế cho cộng đồng. Các
sáng kiến của DLCĐ còn khuyến khích tôn trọng các truyền thống và văn hóa địa
phương cũng như các di sản thiên nhiên.”
Tại Việt Nam, hàng loạt khái niệm về
DLCĐ đã được đề cập. Tác giả Trần Thị Mai (2005) đã xây dựng nội dung cho khái
niệm này như sau: “DLCĐ là hoạt động
tương hỗ giữa các đối tác liên quan, nhằm mang lại lợi ích về kinh tế cho cộng
đồng dân cư địa phương, bảo vệ được môi trường và mang đến cho du khách kinh
nghiệm mới, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương có dự án.”
Cùng có quan điểm nhấn mạnh vai trò
của phương thức phát triển DLCĐ trong công tác bảo tồn môi trường tự nhiên và
nhân văn, tác giả Võ Quế (2006) đã nhìn nhận: “Du lịch dựa vào cộng đồng là phương thức phát triển du lịch trong đó
cộng đồng dân cư tổ chức cung cấp các dịch vụ để phát triển du lịch,
đồng thời tham gia bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường, đồng thời
cộng đồng được hưởng quyền lợi về vật chất và tinh thần từ phát triển
du lịch và bảo tồn tự nhiên.”
Bên cạnh nội dung xem xét phát triển
DLCĐ là phương thức góp phần đẩy mạnh tính hiệu quả trong công tác bảo tồn, tác
giả Bùi Thị Hải Yến (2012) còn đề cập đến việc tham gia của cộng đồng địa
phương, với cách nhìn về DLCĐ: “DLCĐ có
thể hiểu là phương thức phát triển bền vững mà ở đó cộng đồng địa phương có sự
tham gia trực tiếp và chủ yếu trong các giai đoạn phát triển và mọi hoạt động
du lịch. Cộng đồng nhận được sự hợp tác, hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân trong
nước và quốc tế; của chính quyền địa phương cũng như chính phủ và nhận được phần
lớn lợi nhuận thu được từ hoạt động du lịch nhằm phát triển cộng đồng, bảo tồn
khai thác tài nguyên môi trường du lịch bền vững, đáp ứng các nhu cầu du lịch
phong phú, có chất lượng cao và hợp lý của du khách.”
Từ những khái niệm đã nêu đi đến kết
luận: du lịch dựa vào cộng đồng là loại hình du lịch mang lại cho du khách những
trải nghiệm về cuộc sống địa phương, trong đó các cộng đồng địa phương tham gia
trực tiếp vào các hoạt động du lịch và thu được các loại ích kinh tế - xã hội từ
các hoạt động du lịch và chịu trách nhiệm bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi
trường và văn hóa địa phương.
Một số tên gọi thường dùng khi
nói đến du lịch dựa vào cộng đồng:
- Du lịch dựa vào cộng đồng
(Community – based Tourism)
- Phát triển cộng đồng dựa
vào du lịch (Community – development in tourism)
- (Phát triển du lịch sinh thái
dựa vào cộng đồng (Community – Based Ecotourism)
- Phát triển du lịch có sự
tham gia của cộng đồng (Community – Participation in Tourism)
2.3.1.3.
Các loại hình du lịch cộng đồng.
Các loại hình du lịch sau đây phù hợp
với du lịch cộng đồng bởi chúng được sở hữu và quản lý bởi cộng đồng: du lịch
sinh thái, nông thôn du lịch, du lịch làng, du lịch nông nghiệp, du lịch dân tộc
hay bản địa và du lịch văn hóa. Ngoài ra, việc thúc đẩy nghệ thuật và hàng thủ
công địa phương có thể là một thành phần quan trọng trong các dự án Du lịch cộng
đồng và trong các hình thức chủ đạo của ngành du lịch.
Du
lịch sinh thái: du lịch sinh thái là một hình thức du
lịch diễn ra trong khu vực tự nhiên (đặc biệt là trong các khu vực cân được bảo
vệ và môi trường xung quanh nó) và kết hợp tìm hiểu bản sắc văn hóa - xã hội của
địa phương có sự quan tâm đến vấn đề môi trường. Nó thúc đẩy một hệ sinh thái bền
vững thông qua một quá trình quản lý môi trường có sự tham gia của tất cả các
bên liên quan.
Du
lịch văn hóa: du lịch văn hóa là một trong những
thành phần quan trọng nhất của du lịch dựa vào cộng đồng từ khi văn hóa, lịch sử,
khảo cổ học, là yếu tố thu hút khách chủ yếu của cộng đồng địa phương. Ví dụ về
du lịch dựa vào văn hóa bao gồm khám phá các di tích khảo cổ học, địa điểm tôn
giáo nổi tiếng hay trải nghiệm cuộc sống địa phương tại một ngôi làng dân tộc
thiểu số.
Du
lịch nông nghiệp: đây là một hình thức du lịch tại các
khu vực nông nghiệp như vườn cây ăn trái, trang trại nông lâm kết hợp, trang trại
thảo dược và các trang trại động vật, đã được chuẩn bị phục vụ cho khách du lịch.
Khách du lịch xem hoặc tham gia vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp như làm việc
với dụng cụ của nhà nông hoặc thu hoạch mùa mà không làm ảnh hưởng đến hệ sinh
thái hoặc năng suất của gia đình chủ nhà. Một sản phẩm mới đặc biệt là nghỉ
ngơi ở các trang trại hữu cơ, nơi du khách có thể tìm hiểu thêm về thiên nhiên
và học tập các phương pháp canh tác không dùng thuốc trừ sâu.
Du
lịch bản địa: Du lịch bản địa/Dân tộc đề cập đến một
loại du lịch, nơi đồng bào dân tộc thiểu số hoặc người dân bản địa tham gia trực
tiếp vào hoạt động du lịch, nền văn hóa vốn có của họ chính là yếu tố chính thu
hút khách du lịch.
Du
lịch làng: Khách du lịch chia sẻ các hoạt động trong cuộc sống
thôn bản, và các làng nông thôn thu được lợi ích kinh tế từ các hoạt động du lịch.
Dân làng cung cấp các dịch vụ ăn ở, nhà trọ cho khách nghỉ ngơi qua đêm. Nhà trọ
chính chính là các điểm kinh doanh du lịch, trong đó du khách ở lại qua đêm trong
những ngôi nhà làng, cùng với một gia đình. Khách du lịch có thể chọn nhà nghỉ,
các nhà nghỉ này được hoạt động bởi một hợp tác xã, làng, hoặc cá nhân, cung cấp
cho du khách không gian riêng tư hơn, thoải mái cho cả họ và đôi khi cũng là
thoải mái hơn cho chủ nhà.
Nghệ
thuật và Thủ công mỹ nghệ: Nghệ thuật và sản xuất thủ công mỹ
nghệ ở địa phương có một lịch sử lâu dài. Nó không phải là một hình thức độc lập
của du lịch, mà chính là một thành phần của
các loại hình khác nhau của du lịch. Du lịch không chỉ mang lại cơ hội kinh
doanh tốt hơn cho ngành công nghiệp thủ công mỹ nghệ của khu vực, doanh số bán
hàng của hàng thủ công mỹ nghệ cũng có thể giúp người dân địa phương để tìm hiểu
thêm về di sản văn hóa và nghệ thuật phong phú và độc đáo của họ.
2.3.2.
Tính bền vững của du lịch dựa vào cộng đồng so với các mô hình du lịch khác.
Để
xác định tính bền vững của một mô hình du lịch, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng cần
phụ thuộc vào ba yếu tố: Kinh tế bền vững, môi trường bền vững và văn hóa xã hội
bền vững. Du lịch cộng đồng là mô hình có được sự tổng hợp của ba yêu cầu trên
và được xếp là một loại hình du lịch bền vững. Theo một cách phân chia các mô
hình du lịch, du lịch được đề cập tới với hai mô hình du lịch tổng quát và du lịch
lựa chọn. Du lịch tổng quát thường được đánh giá là không bền vững, đặc trưng
chủ yếu của khái niệm du lịch này là quy mô lớn, các gói du lịch do các thành
phần tư nhân ngoài địa phương điều hành và nhằm vào những điểm đến đã được
thương mại hóa ở mức cao, thường chỉ tập trung vào vấn đề kinh tế bền vững. Để
bù đắp lại yếu kém và tính không bền vững của du lịch tổng quát, một khái niệm
mới về du lịch bền vững lựa chọn được đưa ra đáp ứng xu hướng về nhóm du khách
“mới” và có trách nhiệm. Du lịch chọn lựa được coi là sự lựa chọn tốt hơn cho
chiến lược phát triển do nó có đặc thù về tổ chức riêng lẻ, quy mô nhỏ tại các
vùng nhỏ và có mức độ thương mại vừa phải, đồng thời do chính cộng đồng địa
phương quản lý, và thiên hướng áp dụng của du lịch chọn lựa thường là vì mục
đích bảo vệ môi trường và bảo vệ văn hóa-xã hội. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là nếu
được quản lý tốt, du lịch tổng quát cũng có thể bền vững. Mặt khác, du lịch lựa
chọn cũng có thể mất đi tính bền vững nếu quá triệt để. Trên hết, cả hai mô
hình du lịch này đều có thể là du lịch cộng đồng nếu chúng cùng thỏa mãn được
tiêu chí quan trọng nhất là đặt cộng đồng ở vị trí trung tâm. Vì vậy, các mô
hình du lịch cộng đồng tốt nhất thứ nhất là đảm bảo nhận các đặc điểm của cộng
đồng dân cư là thành tố cốt lõi, thứ hai là thỏa mãn một cách công bằng các
khía cạnh bền vững về kinh tế, văn hóa-xã hội và môi trường. Tuy vậy, ba khía cạnh
bàn luận sau được đưa ra để thể hiện quan điểm và sự nhấn mạnh của chúng em về
tính khác biệt và bền vững của mô hình du lịch dựa vào cộng đồng so với các mô
hình du lịch khác.
2.3.2.1. Du lịch dựa vào cộng đồng
quan tâm đến môi trường sinh thái và bảo tồn tài nguyên du lịch.
Không
giống như các mô hình du lịch sinh thái hay du lịch khác khai thác du lịch từ
những tài nguyên tự nhiên có sẵn khác, các mô hình du lịch cộng đồng quan tâm
nhiều hơn đến việc bảo vệ tính chất tự nhiên của các tài nguyên du lịch, khai
thác đi cùng với tôn tạo và bảo vệ môi trường, giảm thiểu và ít gây tác động xấu
đến môi trường tự nhiên và các khu vực sinh thái được sử dụng để làm du lịch.
Bên
cạnh đó, yếu tố văn hóa cũng được quan tâm một cách đúng mực, khi các phong tục
tập quán và bản sắc địa phương là yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công của
du lịch cộng đồng, cộng đồng địa phương và những người làm du lịch khác bên cạnh
việc khai thác hiệu quả từ những phong tục tập quán đó phải có trách nhiệm giữ
gìn, bảo vệ để chúng không bị lai tạp hay mất dần các điểm hay, đep trong nét sống
và phong tục địa phương, các di tích lịch sử, địa điểm truyền thống có sức thu
hút khách du lịch.
Việc bảo vệ và suy trì các nét đẹp về tự nhiên và
văn hóa sẽ là căn cứ duy trì du lịch một cách bền vững trong tương lai.
2.3.2.2. Du lịch dựa vào cộng đồng
có sự tham gia quan trọng của cộng đồng địa phương.
Ngoài
sự nhìn nhận về tiềm năng du lịch và khai thác du lịch của các công ty du lịch
và lữ hành, sự tham gia của cộng đồng địa phương vào các hoạt động du lịch là yếu
tố quan trọng đóng góp vào sự bền vững của du lịch tại địa phương đó. Thông thường
các doanh nghiệp du lịch thường chỉ dừng lại ở việc xây dựng và vận hành chỗ ở
(khách sạn, nhà nghỉ…) cho khách du lịch, tổ chức các tour du lịch có sẵn dựa
trên một số các địa điểm lịch sử, nét văn hóa đặc trưng của vùng miền đó,… Tuy
nhiên họ không thể đem đến cho khách du lịch trải nghiệm xác thực nhất và mới lạ
về cuộc sống và những bản sắc văn hóa sâu xa của cộng đồng địa phương, những thứ
mà chỉ cộng đồng dân cư nơi đó có thể cung cấp cho khách du lịch một cách dễ
dàng nhất. Càng ngày xu hướng tìm kiếm những trải nghiệm thực tế và mới lạ càng
mạnh mẽ, khách du lịch muốn có những trải nghiệm đích thực hơn chỉ là những
chuyến tham quan và kỳ nghỉ đơn thuần. Những yếu tố sâu xa trong văn hóa dân cư
và giá trị truyền thống địa phương sẽ là nguồn thu hút đặc biệt đối với du
khách.
2.3.2.3.
Du lịch dựa vào cộng đồng gắn lợi ích kinh tế với cộng đồng địa phương.
Du
lịch cộng đồng có được sự ủng hộ của chính phủ, tổ chức kinh tế, xã hội
của các nước, trên phạm vi thế giới các tổ chức du lịch và kinh tế đều cho rằng
du lịch cộng đồng là hướng phát triển bền vững cho du lịch. Bên cạnh đó, các
tổ chức phi chính phủ tạo điều kiện giúp đỡ và tham gia vào lĩnh
vực này nên từ đó các vấn đề xã hội, văn hóa, chính trị, kinh tế
và sinh thái trong khuôn viên làng bản trở thành những tác nhân tham
gia cung cấp dịch vụ cho du khách và thu hút được nhiều khách du lịch
đến tham quan, người dân bản xứ cũng có thu nhập từ việc cung cấp
dịch vụ và phục vụ khách tham quan nên loại hình du lịch dựa vào
cộng đồng ngày càng được phổ biến và có ý nghĩa không chỉ đối với
khách du lịch, chính quyền sở tại mà với cả cộng đồng. Lợi ích kinh
tế giờ đây không chỉ thuộc về phần lớn các công ty du lịch mà được chia sẻ một
cách bình đẳng và hợp lý cho cộng đồng địa phương. Đây là động lực quan trọng
khiến cho mỗi cá nhân trong cộng đồng ngày càng quan tâm và ý thức về các giá
trị văn hóa và thiên nhiên mình có, các
tầng lớp dân cư sẽ tham gia vào du lịch cộng đồng một cách tích cực hơn và giúp
nó ngày càng phát triển và bền vững.
2.3.3. Đặc điểm của du
lịch cộng đồng.
DLCĐ có các đặc điểm
phân biệt với các loại hình và các hình thức du lịch khác nhau:
DLCĐ là những phương thức phát triển
mà cộng đồng dân cư địa phương là chủ thể của mọi hoạt động bảo tồn, quản lý,
khai thác tài nguyên môi trường du lịch và các khâu,các hoạt động du lịch trong
quá trình phát triển: tham gia lập và thực hiện quy hoạch du lịch, cộng đồng địa
phương (CĐĐP) tham gia với cả vai trò quản lý, tổ chức, điều hành, giám sát, ra
quyết định phát triển du lịch, bảo tồn, khai thác tài nguyên môi trường du lịch;
tham gia các hoạt động kinh doanh du lịch (kinh tế lưu trú, ăn uống, vận chuyển,
sản xuất hàng hóa, hướng dẫn, kinh doanh lữ hành, kinh doanh các dịch vụ hàng hóa,
vui chơi, giải trí), sản xuất, cung ứng nông phẩm và các hàng hóa khác. CĐĐP giữ
vai trò chủ đạo, duy trì các hoạt động kinh doanh du lịch và hoạt động KT-XH có
liên quan đến du lịch và du khách.
Phát triển DLCĐ là công nhận quyền sở
hữu hợp pháp trong việc bảo tồn, khai thác hợp pháp và bền vững các loại tài
nguyên và môi trường vì sự phát triển của cộng đồng. Phát triên DLCĐ là thực hiện
các mục tiêu phát triển du lịch gắn liền với việc thực hiện các mục tiêu phát
triển cộng đồng vì sự nghiệp của cộng đồng.
Địa điểm tổ chức phát triển DLCĐ: diễn
ra tại nơi cư trú hoặc gần nơi cư trú của CĐĐP. Đây là những khu vực có nguồn
tài nguyên du lịch tự nhiên hoặc nhân văn phong phú, hấp dẫn hoặc cả hai, có độ
nhạy cảm về đa dạng sinh học, chính trị, văn hóa và xã hội hiện đã, đang và có
thể bị tác động bởi con người.
Cộng đồng dân cư phải là người sinh
sống, làm ăn trong hoặc liền kề các điểm tài nguyên du lịch, đồng thời cộng đồng
phải có quyền lợi và trách nhiệm tham gia khai thác cũng như bảo tồn tài nguyên,
các nguồn lực phát triển du lịch bền vững nhằm hạn chế, giảm các tác động tiêu
cực, nâng cao số lượng, chất lượng tài nguyên du lịch (TNDL) từ chính các hoạt
động kinh doanh du lịch, KT-XH của cộng đồng, hoạt động của du khách và các bên
tham gia vào hoạt động du lịch nói chung.
Phát tiển DLCĐ vừa góp phần da dạng
hóa, nâng cao chất lượng tài nguyên môi trường du lịch, các sản phẩm du lịch, đồng
thời góp phần duy trì, phát triển các ngành nghề kinh tế truyền thống của địa
phương, ủng hộ sự đa dạng về các ngành kinh tế. Phát triển DLCĐ phải đảm bảo sự
công bằng trong việc phân chia nguồn lợi từ hoạt động du lịch. Phần lớn nguồn lợi
thu được từ hoạt động du lịch được giữ lại cho cộng đồng. Hoạt động này phải
tính đến các hiệu quả về KT-XH, môi trường, và chịu sự điều tiết của các quy luật
KT-XH, đặc biệt là quy luật cung-cầu.
DLCĐ cũng bao gồm
các yếu tố trợ giúp cộng đồng phát triển du lịch của các bên tham gia du lịch,
gồm các cá nhân, các công ty du lịch, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ, các
cấp quản lý nhà nước.
DLCĐ còn bao gồm cả cơ thể, chính
sách của cơ quan quản lý nhà nước các cấp, của chính phủ, của các tổ chức và
cách thức sản xuất kinh doanh các sản phẩm du lịch để xã hội hóa du lịch, cộng
đồng dân cư được đi du lịch, được hưởng ngày càng nhiều sản phẩm du lịch.
Tổ
chức phát triển DLCĐ thực chất là phát triển các loại hình du lịch bền vững, có
trách nhiệm với tài nguyên môi trường và sự phát triển của cộng đồng. Chủ thể của
các hoạt động bảo tồn, tôn tạo tài nguyên môi trường và khai thác chính cho
phát triển du lịch là các cộng đồng địa phương. Nguồn lợi thu được từ hoạt động
du lịch cũng như mục đích của các hoạt động trên nhằm phát triển cộng đồng. Các
loại hình DLCĐ do đó còn được gọi là các loại hình du lịch vì dân và do dân.
Phát
triển DLCĐ, một mặt, giúp phát huy lợi thế các nguồn lực phát triển du lịch tại
nơi hoặc gần noi cộng đồng sinh sống nhằm đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản
phẩm du lịch, đáp ứng các nhu cầu du lịch phong phú, chất lượng cao và hợp lý của
du khách. Mặt khác, phát triển DLCĐ còn bao hàm cả gốc độ cầu du lịch nhằm xây
dựng, thực thi các chính sách, cũng như tạo ra các sản phẩm du lịch, nhằm xã hội
hóa cầu du lịch để cộng đồng dân cư, đặc biệt là những người nghèo có thể đi du
lịch và hưởng thụ các sản phẩm du lịch ngày càng nhiều, tạo ra sụ công bằng xã
hội và tạo ra thị trường cho phát triển các loại hình du lịch này.
Việc
tổ chức, đầu tư, triển khai, phát triển các loại hình DLCĐ đòi hỏi nhiều thời
gian, công sức, tiền của, cơ chế, chính sách, cơ sở vật chất kỹ thuật, vì vậy cần
được thực hiện có nguyên tắc.
2.3.4. Các điều kiện
hình thành và phát triển du lịch cộng đồng.
Các
chuyên gia đều cho rằng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng phụ thuộc vào các
điều kiện cơ bản là:
Tài
nguyên du lịch đa dạng, phong phú và mang tính đặc trưng cao.
Đây
là điều kiện có ý nghĩa quyết định đến phát triển du lịch dựa vào cộng đồng.
Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng,
giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của con người có thể sử dụng nhằm
thỏa mãn nhu cầu du lịch; là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu
du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch (Pháp lệnh Du lịch Việt Nam, 1999).
Như
vậy ngay trong định nghĩa của tài nguyên du lịch đã cho thấy tầm quan trọng của
nó. Nó được xem như tiền đề phát triển của bất cứ loại hình du lịch nào. Thực tế
cho thấy, tài nguyên du lịch càng phong phú hấp dẫn bao nhiêu, càng đặc sắc bao
nhiêu thì sức hấp dẫn và hiệu quả hoạt động du lịch càng cao bấy nhiêu. Nó bao
gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn: Tài nguyên du lịch
tự nhiên bao gồm các yếu tố hợp phần tự nhiên, các hiện tương tự nhiên và quá
trình biến đổi của chúng, tạo nên các điều kiện thường xuyên tác động đến sự sống
và hoạt động của con người được sử dụng vào mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch
nhân văn là nhóm tài nguyên du lịch có nguồn gốc nhân tạo, nghĩa là do con người
sáng tạo ra; bao gồm toàn bộ những sản phẩm có giá trị về vật chất cũng như
tinh thần do con người sang tạo ra có giá trị phục vụ du lịch. Các giá trị đó lại
được phân ra thành các giá trị văn hóa vật thể như các di tích văn hóa, lịch sử,
các sản phẩm truyền thống... hay các giá trị văn hóa phi vật thể như các phong
tục, tập quán, các lễ hội... của cộng đồng. Du lịch cộng đồng được xác lập trên
một địa điểm xác định gắn với các giá trị tài nguyên sẵn có của nó, là sự hòa
quyện của các giá trị tự nhiên và nhân văn. Có thể nói nếu không có tài nguyên
du lịch thì không thể phát triển du lịch.Vì vậy, đứng trên góc độ địa lý thì việc
nghiên cứu tài nguyên du lịch luôn là nền tảng cho sự phát triển du lịch địa
phương.
Điều
kiện về yếu tố cộng đồng là sự tham gia rộng rãi và hiệu quả.
Điều
này được đánh giá trên các yếu tố số lượng thành viên, bản sắc dân tộc, phong tục
tập quán, trình độ học vấn và nhận thức trách nhiệm về tài nguyên và phát triển
du lịch. Xác định phạm vi cộng đồng là những dân cư sinh hoạt và lao động cố định,
lâu dài trong hoặc liền kề vùng có tài nguyên thiên nhiên.
Cộng
đồng dân cư đóng vai trò xuyên suốt trong hoạt động du lịch, chủ thể tham gia trực tiếp vào
hoạt động du lịch, vừa là người quản lý, có trách nhiệm bảo tồn tài nguyên du lịch.
Các yếu tố cộng đồng quyết định tới sựphát triển du lịch cộng đồng là sự ý thức
về tầm quan trọng cũng như tính chuyên nghiệp trong việc cung cấp một sản phẩm
du lịch đúng nghĩa; điều đó phải bắt nguồn từ việc nhận thức về lợi ích của du
lịch cộng đồng tới sự phát triển bền vững về kinh tế, văn hóa và môi trường của
cộng đồng.
Ý
thức tự hào về cộng đồng tức là tự hào về truyền thống văn hóa bản địa. Cộng đồng phải có một trình độ
văn hóa nhất định để hiểu được các giá trị văn hóa bản địa, tiếp thu và ứng dụng
các kiến thức văn hóa và kỹ thuật phù hơp vào hoạt động du lịch. Cộng
đồng phải có trình độhiểu biết về hoạt động du lịch để từ đó cân bằng giữa lợi
ích kinh tế và văn hóa, môi trường, giữa văn hóa bản địa và nhu cầu của khách;
đó là cơ sở để không làm mai một các giá trị văn hóa bản địa dẫn tới sự xuống cấp
của các sản phẩm du lịch đặc trưng.
Điều
kiện về cơ chế chính sách tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển du lịch
và sự tham gia của cộng đồng.
Trước
tiên ta phải kể đến chủ trương của Đảng và Nhà nước. Chủ trương của Nhà nước thể
hiện ở mục tiêu phát triển và chiến lược phát triên du lịch quốc gia đến các
văn bản pháp luật có tính pháp lý với việc quản lý hoạt động du lịch. Nếu Nhà
nước có chủ trương phát triển du lịch thì có các chính sách thuận lợi thu hút
khách du lịch và đầu tư cho du lịch.Từ đó, Nhà nước sẽ có những đầu tư cho địa
phương như hỗ trợvốn, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ đào tạo về kỹ thuật
làm du lịch.
Chính
quyền địa phương có vai trò quan trọng trong điều kiện phát triển du lịch công
đồng. Bằng quyền lực của mình, họ có thể bác bỏ, cấm đoán hay khuyến khích việc
xây dựng điểm du lịch cũng như phát triển du
lịch. Sự yểm trợ cũng như ủng hộ của chính quyền địa phương thể hiện ở các mặt:
Tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch đến tham quan như việc cấp thủ tục
hành chính, các quy định không quá khắt khe đối với khách du lịch.
Khuyến
khích và hỗ trợ địa phương tham gia hoạt động du lịch: Hỗ trợ đầu tư về vốn, kỹ
thuật cho cộng đồng, có những chính sách thông thoáng, mở cửa đối với các tổ chức,
đoàn thể tham gia phát triển du lịch. Tham gia định hướng chỉ đạo và quản lý
các hoạt động du lịch. Tạo môi trường an toàn cho khách du lịch bằng các biện
pháp an ninh cần thiết.
Nguồn
cầu của du lịch là động lực để phát triển du lịch cộng đồng của địa phương.
Đối
tượng của du lịch bao giờ cũng là khách du lịch. Đứng dưới góc độ du lịch nói
chung, họ là khách thể, là yếu tố tạo ra thị trường. Và hơn hết có cầu thì mới
có cung, do đó cho thấy tầm quan trọng mang tính quyết định sự hình thành và
phát triển của một loại hình du lịch cũng như điểm du lịch. Khách du lịch có động
cơ là tiếp cận các nguồn tài nguyên du lịch ở địa phương cũng như nhu cầu có bản
khác. Cộng đồng địa phương sẽ có được lợi ích khi cung cấp các sản phẩm du lịch
cho khách. Nếu nhu cầu của khách du lịch cao thì nguồn cung cũng phải tương ứng.
Như vậy khách du lịch là động lực phát triển cho du lịch.
Sự
hỗ trợ, giúp đỡ của các tổ phi chính phủ trong và ngoài nước về nhân lực, tài
chính và kinh nghiệm phát triển du lịch dựa vào cộng đồng.
Tổ
chức phi chính phủ là các tổ chức hoạt động vì mục đích phát triển cộng đồng trong
nhiều lĩnh vực nhu kinh tế, văn hóa, du lịch, môi trường và giáo dục... Trong bối
cảnh điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước nói chung cũng như địa phương nói
riêng còn khó khăn thì sự hỗ trợ của các tổ chức này là rât quan trọng. Đối với
du lịch cộng đồng, sự hỗ trợ thể hiện ở các mặt: Sự nghiên cứu về tiềm năng du
lịch địa phương cùng những giải pháp giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, môi
trường tạo tiền đề cho sự phát triển du lịch.Sự hỗ trợ về vốn, kỹ thuật và đào
tạo nguồn nhân lực cho địa phương.
2.3.5. Các nguyên tắc của
du lịch cộng đồng.
Nguyên
tắc 1: Thừa nhận, ủng hộ và thúc đẩy quan hệ sở hữu của cộng đồng về các nguồn
lực phát triển du lịch và việc tham gia phát triển du lịch.
Nguyên
tắc này khẳng định quyền sở hữu việc bảo tồn, tôn tạo và khai thác các loại
TNDL thuộc về cộng đồng, bản thân các cộng đồng địa phương, đặc biệt là những cộng
đồng nghèo, thiếu tri thức cũng như kinh nghiệm, cơ sở vật chất, tài chính để
có thể tổ chức, quản lý, triển khai các hoạt động bảo tồn, tôn tạo, khai thác
các nguồn lực cho sự phát triển có hiệu quả. Vì vậy, họ cần được ủng hộ, hỗ trợ
về tài chính, cơ chế, chính sách, về lập và thực hiện kế hoạch phát triển du lịch.
Cộng đồng là chủ thể của các hoạt động bảo tồn, tôn tạo tài nguyên môi trường
du lịch cũng như tham gia các hoạt động
du lịch, và tất nhiên các nguồn lợi thu được từ hoạt động du lịch chủ yếu thuộc
về họ.
Nguyên
tắc 2: Lấy ý kiến của các bên tham gia, tôn trọng ý kiến của cộng đồng địa
phương, đảm bảo những kiến nghị của cộng đồng được chuyển đến những người có
trách nhiệm xem xét và giải quyết.
Nguyên
tắc này giúp cho việc lập và thực hiện các quy hoạch thành công. Vì trong quá
trình điều tra xã hội học có thể điều tra, đánh giá được nhận thức, năng lực
tham gia các hoạt động du lịch, mức độ tham gia, sự ủng hộ hay phản đối của cộng
đồng với các kế hoạch phát triển du lịch và bảo tồn, tôn tạo TNDL, phát hiện được
các mâu thuẩn trong quá trình phát triển, đảm bảo tính công khai, dân chủ và sự
tham gia của họ và giải quyết được các vấn đề hạn chế trong quá trình phát triển
du lịch. Thực hiện được nguyên tắc này đảm bảo tính công bằng trong quá trình
phát triển DLCĐ của các bên tham gia.
Nguyên
tắc 3: Ngay từ đầu, khi lập kế hoạch phát triển du lịch cũng như trong suốt quá
trình phát triển du lịch, cần thu hút và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng
vào tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh doanh du lịch và bảo tồn.
Nguyên
tắc này giúp cho việc khẳng định vai trò chủ thể, quyền lợi và nghĩa vụ của cộng
đồng địa phương tham gia vào phát triển du lịch, vào hoạt động bảo tồn, tôn tạo
tài nguyên, phát triển cộng đồng, và bao gồm cả việc tổ chức, quản lý, giám
sát, ra quyết định cũng như tham gia vào các hoạt động kinh doanh du lịch, bảo
tồn tài nguyên, phát triển KT-XH một cách chủ động, tích cực, sáng tạo. Cộng đồng
không chỉ có vai trò là người làm thuê với giá nhân công rẻ, bị bóc lột sức lao
động và tài nguyên, mà phần nào còn tạo ra sự công bằng khi phân chia các lợi
ích từ hoạt động phát triển du lịch cũng như phát triển KT-XH cho họ.
Đồng
thời, nguyên tắc này giúp việc đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch,
tạo ra các sản phẩm du lich độc đáo, hạ giá thành sản phẩm du lịch, hấp dẫn du
khách và xã hội hóa du lịch giúp cho các cộng đồng nghèo có thể làm du lịch và
hưởng thu các sản phẩm du lịch.
Nguyên
tắc 4: Phát triển du lịch như một công cụ giúp cộng đồng địa phương sử dụng để
phát triển KT-XH trong khi vẫn duy trì sự đa dạng kinh tế và không làm suy giảm
các ngành nghề truyền thống.
Nguyên
tắc này giúp cho việc xác định vị trí, vai trò của ngành Du lịch trong quy hoạch phát triển du lịch
cũng như phát triển KT-XH hướng tới phát triển du lịch thành một đòn bẩy vừa
phát triển KT-XH của địa phương, du lịch phát triển, vừa khôi phục phát triển
ngành nghề truyền thống, giảm tác động tiêu cực từ các hoạt động KT-XH. Đồng thời,
đây cũng là nguyên tắc bảo tồn, duy trì sự đa dạng tự nhiên và văn hóa, tính đa
dạng và đặc sắc làm giảm giá thành sản phẩm, không làm suy giảm dân số. Bởi vì
những ngành sản xuất truyền thống khi được phục hồi, phát triển để cung cấp các
nông phẩm và hàng hóa cho khách sẽ tạo ra thu nhập, việc làm, nâng cao chất lượng
cuộc sống của người dân. Từ đó, họ không phải ra các thành phố tìm kiếm việc
làm, họ cũng có ý thức và hỗ trợ cho việc bảo vệ cũng như khai thác tài nguyên
tốt hơn, tạo môi trường tốt hơn cho phát triển du lịch.
Nguyên
tắc 5: Hòa nhập quy hoạch phát triển DLCĐ vào quy hoạch phát triển KT-XH của địa
phương và của quốc gia.
Du
lịch là một ngành kinh tế tổng hợp mang tính liên ngành và xã hội hóa cao, cần
phải hợp tác, liên kết cùng phát triển với nhiều ngành kinh tế và phải có sự ủng
hộ của Chính phủ, các tổ chức, cơ quan, ban ngành, các cấp quản lý của nhà nước.
Do vậy, quy hoạch phát triển DLCĐ cần được coi là một bộ phận của quy hoạch
ngành kinh tế trong Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH địa phương.
Nguyên
tắc 6: Khai thác, bảo tồn các nguồn lực theo hướng thận trọng, hạn chế, tiết kiệm
và bền vững.
Các
nguồn lực phát triển du lịch, đặc biệt là các nguồn TNDL tự nhiên và nhân văn đều
có một đặc điểm là dễ thay đổi, suy giảm theo hướng tiêu cực. Vì vậy, khi quy
hoạch phát triển DLCĐ cần đưa ra, thực thi các phương cách khai thác, bảo tồn
các nguồn lực theo hướng có kiểm soát, tiết kiệm và bền vững, vận dụng các chỉ
số về sức chứa trong quá trình khai thác, không vượt quá khả năng phục hồi, tái
tạo của các nguồn tài nguyên, hài hòa với các yếu tố địa lý tại chỗ và các giá
trị văn hóa bản địa.
Nguyên
tắc 7: Duy trì tính đa dạng về tự nhiên
và sự đa dạng về văn hóa cũng như các giá trị văn hóa bản địa.
Duy
trì tính đa dạng về tự nhiên và sự đa dạng về văn hóa, đặc biệt là sự đa dạng về
các hệ sinh thái và đa dạng sinh học chính là bảo vệ môi trường sống của cộng đồng
và tạo ra sự đa dạng, tính độc đáo của sản phẩm du lịch, có sức hấp dẫn với du
khách. Do vậy, khi phát triển du lịch phải đi đôi với việc bảo tồn, tôn tạo
TNDL, thu hút các bên tham gia vào các hoạt động này và phải coi trọng đầu tư
phát triển giáo dục cho các thành viên tham gia. Đặc biệt, phát triển du lịch
du lịch không vượt quá sức tải về môi trường sống của cộng đồng địa phương, phải
tôn trọng những giá trị văn hóa và phong cách sống của cộng đồng. Phát triển du
lịch cũng cần góp phần thúc đẩy niềm tự hào của cộng đồng trong việc bảo tồn,
phát huy các giá trị văn hóa, tăng cường giao lưu văn hóa giữa khách du lịch với
cộng đồng và trong các cộng đồng.
Nguyên
tắc 8: Hỗ trợ địa phương trong hoạt động du lịch và phát triển KT-XH, phát triển
du lịch góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cộng đồng.
Các cộng đồng địa phương, đặc biệt là những cộng đồng
nghèo ở khu vực nông thôn, miền núi, ven biển, thường có trình độ nhận thức hạn
chế, trình độ phát triển văn hóa và kinh tế thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật chưa
đầy đủ. Do vậy, phần lớn các cộng đồng địa phương không thể tự mình có đủ các
nguồn lực để quy hoạch phát triển du lịch và quy hoạch phát triển KT-XH. Vì thế,
các cơ quan quản lý về du lịch cũng như các cấp quản lý của nhà nước nói chung,
các tổ chức, cá nhân nói riêng cần hỗ trợ cộng đồng trong việc lập, thực hiện
các quy hoạch phát triển du lich về cơ chế, chính sách, tài chính, cơ sở vật chất
kỹ thuật.
Đồng
thời, các chính sách phát triển DLCĐ như chính sách an sinh xã hội góp phần
phát triển KT-XH, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống cho dân cư
cần được coi như chiến lược phát triển của địa phương và quốc gia.
Nguyên
tắc 9: Tăng cường giáo dục và đào tạo nguồn lực địa phương.
Các
cộng đồng địa phương, đặc biệt là các cộng đồng nghèo, thường có nhận thức về lịch
cũng như nhận thức về môi trường, KT-XH, khoa học kỹ thuật hạn chế, trình độ
lao động thấp. Do vậy, để có thể thực hiện các quy hoạch phát triển du lịch cộng
đồng có hiệu quả cần phải coi trọng giáo dục và tào tạo nguồn nhân lực địa
phương như một giải pháp mang tính quan trọng và quyết định hàng đầu.
Giáo dục du lịch, ngoài việc phải
thực hiện với cộng đồng địa phương, còn cần được thực hiện với khách du lịch,
các nhà thầu, các bên tham gia du lịch nói chung.
Nguyên
tắc 10: Phân chia lợi nhuận một cách
công bằng giữa các bên giam gia DLCĐ, phần lớn nguồn lợi thu được từ du lịch để
lại cho phát triển cộng đồng.
Chủ
sở hữu hợp pháp các nguồn tài nguyên du lịch là cộng đồng địa phương. Vì vậy, cộng
đồng địa phương cần được tham gia vào tất cả các khâu, các quá trình phát triển
du lịch với vai trò người chủ sở hữu tài nguyên và các nguồn lực phát triển du
lịch nói chung. Vì thế, phần lớn nguồn lợi thu được cần giữ lại để đầu tư cho
việc nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển cộng đồng, cũng chính là đầu
tư cho bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và phát triển du lịch.
Để
tránh nảy sinh các mâu thuẫn trong quá trình phát triển, tránh tiêu cực, tham
nhũng trong quá trình, quản lý và sử dụng các nguồn thu từ hoạt động du lịch,
việc phân chia nguồn lợi thu được từ hoạt động du lịch cần được công khai và
công bằng giữa các bên tham gia cũng như giữa các thành viên trong cộng đồng.
Nguyên
tắc 11: Đầu tư xúc tiến phát triển du lịch, tiếp thị trung thực và có trách nhiệm.
Các
cộng đồng địa phương không có đủ trình độ, năng lực và các nguồn lực để họ tự đầu
tư cho việc xúc tiến phát triển du lịch. Do vậy, cần có sự hỗ trợ của các tổ chức,
các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch và cá có quan quản lý nhà nước, các ban
ngành nói ching về việc đầu tư xúc tiến phát triển du lịch. Đến nay, ở nhiều nước
phát triển và đang phát triển, du lịch được coi là ngành kinh tế mũi nhọn. Việc
xúc tiến phát triển DLCĐ cũng như xúc tiến phát triển du lịch nói chung phần lớn
là do nhà nước đầu tư từ nguồn kinh phí công ích. Các thành viên tham gia du lịch sẽ trích một phần
lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh du lịch, bằng việc đóng thuế thu nhập,
nộp lại cho các trung tâm xúc tiến phát triển du lịch.
Vừa
để giáo dục du khách, vừa tạo lòng tin đối với du khách về sản phẩm du lịch, và
để đảm bảo quyền lợi cho du khách, nội dung tiếp thị, quảng bá về DCLĐ cần phải
trung thực, mang tính giáo dục và có trách nhiệm với quyền lợi của du khách, của
cộng đồng cũng như với việc bảo tồn, tôn tạo tài nguyên môi trường du lịch và
môi trường sống của động đồng.
Nguyên
tắc 12: Tăng cường nghiên cứu, theo dõi, đánh giá, thống kê, hợp tác trong phát
triển du lịch cộng đồng.
Các
yếu tố phát triển KT-XH cũng như phát triển du lịch luôn biến động và có nhiều
thay đổi cần được điều chỉnh, bổ sung kịp thời. Phát triển DLCĐ là một lĩnh vực
còn khá mới mẻ, đặc biệt với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, do
đó cần được theo dõi, giám sát, rút kinh nghiệm, đưa ra giải pháp, cơ chế,
chính sách phát triển đúng đắn, có hiệu quả để có sự hỗ trợ về kinh nghiệm và
nguồn lực cho cộng đồng địa phương, đặc biệt
từ các cơ sở nghiên cứu đào tạo, cũng như các tổ chức quốc tế. Do vậy, tăng cường
nghiên cứu, theo dõi, đánh giá, thống kê, hơp tác trong phát triển DLCĐ đã trở
thành nguyên tắc quan trọng, có tính quyết định cho sự phát triển các loại hình
du lịch này.
CHƯƠNG
3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1.1.
Khái quát về Bản Lác, Mai Châu, Hòa Bình
Bản Lác nằm trên địa phận xã Chiềng Châu, huyện Mai Châu,
tỉnh Hoà Bình. Bản Lác cách trung tâm xã Chiềng Châu
Khí
hậu ở Bản Lác chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa tây bắc, chia thành hai mùa:
mùa mưa và mùa khô, biên độ trong ngày cao, có ngày rét, sương muối hoặc mưa
phùn giá rét. Hệ sinh thái rừng tự nhiên ở đây hầu như đã cạn kiệt, chỉ còn rừng
trồng và những vạt nương định canh đem đến cho du khách thấy nét đẹp khác của tự
nhiên đã bị chinh phục ở nơi đây.
Bản là nơi sinh sống của
người dân tộc Thái trắng có nguồn gốc từ đông nam Trung Quốc với 5 dòng họ: họ
Hà, Lò, Vì, Mác và Lộc, một tỷ lệ rất nhỏ người trong bản thuộc dân tộc Mông,
Mường và Kinh. Theo tiếng của địa phương, Bản Lác được gọi là Bản Lạc, nghĩa là
nơi hội tụ của những người Thái làm nghề buôn bán, hoặc đi tha phương cầu thực,
gặp miền đất lành nên ở lại sinh sống và làm ăn. Bản Lác đã có tuổi đời trên
700 năm, đến nay đã có trên 100 hộ dân, trước đây dân bản chỉ sống dựa vào nghề
trồng lúa, làm nương và dệt thổ cẩm. Sau này, nhờ có vị trí tự nhiên thuận lợi
và nền văn hóa đặc trưng, Bản Lác trở thành một điểm du lịch nổi tiếng và hấp dẫn
du khách. Năm 1993, UBND huyện Mai Châu chính thức đề nghị tỉnh Hòa Bình cho
phép khách du lịch nghỉ qua đêm trong bản.
Mô hình kinh tế ở bản Lác là hợp tác nông-lâm nghiệp chăn
nuôi và dịch vụ (trong đó nổi lên là dịch vụ du lịch). Trên cơ sở đó vận hành
theo phương thức khoán gọn đến từng hộ gia đình, điều tiết sản xuất, phân phối
nhằm mục đích nâng cao mức sống của nhân dân, đảm bảo cân đối giữa lợi ích của
người lao động và lợi ích tập thể, nhờ đó kinh tế hộ gia đình tại bản ngày càng
được nâng cao. Năm 2013 thu nhập bình quân
của người dân đã tăng lên mức 2,5 triệu đồng/người/tháng. Bên cạnh dịch vụ du lịch,
một số hộ trồng dâu, nuôi tằm, hàng năm thu bình
quân 1,5 tấn kén, đồng thời trồng bông làm nguyên liệu để dệt thổ cẩm, hàng năm
tiêu thụ 100.000 mét vải cho khách du lịch và bán ra thị trường. Ngoài ra, người
dân trong bản còn sản xuất một số sản phẩm nông nghiệp khác như: chăn nuôi gia
súc, gia cầm, thả cá, trồng nấm…. Đặc biệt từ nhiều năm nay, học tập các hộ đi
đầu làm du lịch hiện nay số đông các hộ gia đình đã đăng ký kinh doanh du lịch,
làm thêm nhà nghỉ, mua sắm thêm các tiện nghi tốt hơn để phục vụ khách du lịch
nghỉ ngơi, ăn uống, bán quà lưu niệm, hàng thổ cẩm, mỹ nghệ... tạo nguồn thu
đáng kể, góp phần nâng cao mức sống của nhân dân.
3.1.2. Thực trạng phát triển du lịch cộng đồng tại Bản Lác
Vào những năm 1980, Bản Lác bắt đầu đón nhận khách du lịch,
trong đó chủ yếu là từ khối Xô Viết, Đông Âu, sau đó vào những năm 1990 là
khách du lịch phương Tây. Năm 1995, bản chính thức được cấp phép kinh doanh nhà
nghỉ và trong vòng 20 năm kể từ khi bắt đầu làm du lịch Bản Lác đã khẳng định
là một trong những địa điểm du lịch trọng điểm của tỉnh Hòa Bình.
Về
lượng khách và doanh thu
Tính trong năm 2015 Bản Lác thu hút hơn 380.000 lượt
khách trong nước và quốc tế với nguồn thu từ các hoạt động du lịch ước tính
trên 60 tỷ đồng, tỷ lệ khách du lịch so với năm 2014 tăng tới 25%.
Cơ
sở vật chất kỹ thuật
Cơ sở lưu trú: Cả Bản có 112 hộ dân với trên 60 hộ đăng ký dịch vụ
homestay. Tất cả các hộ đều được trang bị đầy đủ các hạ tầng thiết yếu phục vụ
du lịch như điện, nước sạch, truyền hình, internet…. Giá nhà nghỉ trung bình
khoảng 40.000 đồng/người/đêm.
Cơ sở ăn uống: Ở bản có 4 nhà hàng với số lượng 4-5 nhân
viên/1 nhà hàng giá dịch vụ trung bình từ 80 - 100.000 đồng/người/bữa. Ngoài ra
hầu hết các gia đình làm homestay đều cụng cấp dịch vụ ăn uống tại gia với giá
100.000 đồng/người/bữa.
Các điểm tham quan, dịch vụ vui chơi giải trí khác: hệ thống
các điểm tham quan đã được quan tâm đầu tư xây dựng, nhưng chưa đáp ứng được
nhu cầu của khách du lịch. Các hoạt động chính của du khách là dựa vào cảnh
quan thiên nhiên như: đi bộ dạo phố, ngắm đồi núi, tham quan gian hàng, và tìm
hiểu các nét văn hóa dân tộc.
Phương tiện vận chuyển, đưa đón khách: Ở bản có trên 20
xe điện từ 7-10 chỗ chở du khách đi vòng quanh các bản trong khu vực để tham
quan. Ngoài ra còn có dịch vụ cho thuê xe đạp với khoảng 200 chiếc.
Nhìn chung với cơ sở vật chất hiện tại là đủ điều kiện
phát triển về lượng của du khách, từng bước đáp ứng các ăn nghỉ, vui chơi giải
trí cao hơn.
Bảng 3.1: Sự tham gia vào hoạt động du lịch ở Bản
STT |
Loại hình |
Tỷ lệ hộ tham gia |
1 |
Sản xuất
và bán hàng thổ cẩm |
80% |
2 |
Dịch vụ
nhà nghỉ Homestay |
60% |
3 |
Dịch vụ
nhà hàng |
5% |
4 |
Dịch vụ
tham quan và hướng dẫn |
20% |
(Điều tra thực địa năm 2017)
Kinh doanh lữ
hành
Người
dân hầu như chịu trách nhiệm chính về các hoạt động trong bản Lác, các công ty
du lịch ở Hà Nội chỉ đảm nhiệm việc vận chuyển khách đến và đi từ bản. Đối với
khách nước ngoài các công ty sẽ cùng chia sẻ việc cung cấp hướng dẫn viên nói
tiếng Anh. Trong bản cử ra một người chịu trách nhiệm kiểm tra số khách đến và
đi. Cộng đồng sẽ chịu trách nhiệm trả lương cho nhân viên này.
Các dự án đầu
tư
Từ
những năm cuối thế kỷ 20, hầu hết phụ nữ trong bản đã từ bỏ các hoạt động dệt
vì họ quá bận rộn với việc đồng áng, mặt khác giá bán của các sản phẩm thổ cẩm
không đủ bù đắp chi phí lao động họ bỏ ra. Năm 2002, huyện Mai Châu được dự án
xây dựng cơ sở làng nghề đầu tư nhằm tạo cơ sở ban đầu cho phát triển du lịch
làng nghề, nhờ đó hoạt động dệt vải thổ cẩm được khôi phục ở Chiềng Châu. Tuy
nhiên, do đồng bào ở đây không trồng bông, trồng dâu để dệt vải nữa, nên những
tấm vải thổ cẩm truyền thống của các dân tộc Mai Châu lại được dệt từ những
sợi tổng hợp qua xử lý mang từ dưới xuôi lên. Đây chính là nguyên nhân làm cho
dệt thổ cẩm ở Mai Châu trở nên mai một, không giữ được sự tinh tuý
như vốn có. Sản phẩm làm ra nhiều nhưng du khách không thích.
Nhắm
tới mục tiêu là thúc đẩy người dân sản xuất ra các đồ lưu niệm để phục vụ khách
du lịch đến thăm bản Lác, từ năm 2009 tổ chức JICA đã hỗ trợ đầu tư cho bà con
trồng dâu và trồng bông làm vải thổ cẩm và vải tơ tằm. với 35 thành
viên được thành lập. JICA đã tài trợ HTX Dệt thổ cẩm Chiềng Châu nhiều máy may
công nghiệp, tổ chức các lớp tập huấn kỹ năng dệt thổ cẩm cho bà con, phục dựng
bí quyết nhuộm màu cổ truyền từ các loại lá cây, thiết kế tìm tòi đa dạng mẫu
mã sản phẩm phù hợp với thị hiếu du khách, liên kết giữa các HTX trong khuôn khổ
dự án hỗ trợ về mặt mua nguyên liệu thô và bán sản phẩm. Các khóa đào tạo may
và thêu đã được triển khai tại HTX với nhiều nội dung: may cơ bản, cải tiến
thêu, nâng cao hoàn thiện sản phẩm, thêu theo các mẫu truyền thống, học về phối
màu.
3.1.3.
Văn hóa người Thái ở Bản Lác
Người
ở Bản lác chủ yếu là người Thái, các dân tộc khác như Mường, Kinh… chỉ có vài
người, chuyển đến sinh sống dưới hình thức dâu rể. Văn hóa người Thái vẫn được
bảo tồn và có chút giao thoa với văn hóa các dân tộc khác.
Người
Thái nói các thứ tiếng thuộc nhóm ngôn ngữ gốc Thái của hệ ngôn ngữ Thái –
Kadai. Trong nhóm này có tiếng Thái của người Thái (Thái Lan), tiếng Lào của
người Lào, tiếng Shan ở Myanmar và tiếng Choang ở miền nam Trung Quốc. Tại Việt
Về
văn hóa ứng xử, xã hội người Thái là xã hội phù quyền, đề cao vai trò của người
đàn ông trong gia đình và ngoài xã hội. Hôn nhân do trai gái tự nguyện. Rất mến
khách và có tính cộng đồng cao.
Về
đời sống văn hóa, người Thái vẫn duy trì cuộc sống gắn với nhà sàn, có xây dựng
nhà bê tông nhưng xây thấp và nằm sâu bên trong nhà để ít ảnh hưởng đến cảnh
quan truyền thống. Trang phục của phụ nữ Thái trắng gồm áo sửa cỏm và váy đen
bó sát người cùng với chiếc khăn piêu tạo nên vẻ thanh nhã, duyên dáng của người
phụ nữ Thái. Trang phục truyền thống giờ không còn được mặc nhiều nhưng vẫn
không thể thiếu trong các dịp lễ tết, các buổi biểu diễn văn nghệ truyền thống.
Ở bản có thể dễ dàng nhìn thấy hình ảnh những người phụ nữ ngồi bên khung cửi lớn
dệt vải. Các cô gái Thái trước khi về nhà chồng
phải biết dệt thổ cẩm và thêu thùa. Bằng chứng là trước khi về làm dâu họ phải
tự tay làm tặng bố mẹ chồng một bộ chăn đệm, trong đó có một chiếc khăn Piêu tặng
mẹ chồng. Chính bởi vậy mà người Thái coi thổ cẩm là đời sống vật chất và tinh
thần của mình.
Về
ẩm thực, người Thái có nhiều kỹ thuật chế biến món ăn độc đáo hấp dẫn du khách,
có thể kể đến như: cơm lam, xôi nếp Mai Châu, nhộng ong rừng rang măng chua, rượu
cần, thịt ướp chua, cá suối nướng…
Các
lễ hội lớn của người Thái tại Bản Lác là Xên Bản Xên Mường, Chả Chiêng tết Cơm
Mới vẫn được tổ chức hàng năm và thu hút lượng lớn khách du lịch khi tổ chức.
Trong các lễ hội người dân các dân tộc không chỉ người Thái biểu diễn các bài
hát, điệu múa truyền thống của dân tộc mình, các trò chơi được tổ chức cho cả
người dân và khách du lịch cũng có thể tham gia.
3.2. Các phương pháp nghiên cứu được
sử dụng
- Nghiên cứu tại bàn (Desk Study):
Phương pháp này được sử dụng để thực hiện tổng quan các nghiên cứu liên quan đến
đề tài, tìm kiếm thông tin về địa bàn nghiên cứu, tìm hiểu kỹ thuật phân tích,
thảo luận vấn đề nghiên cứu và trình bày báo cáo nghiên cứu.
- Nghiên cứu định tính:
+
Tham vấn chuyên gia: Đây là phương pháp đóng vai trò quan trọng trong việc thực
hiện đề tài, được thực hiện trong nhiều công đoạn bao gồm tham vấn lựa chọn
phương pháp nghiên cứu, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá và thực hiện thu thập
đánh giá của chuyên gia đối với mức độ quan trọng của các tiêu chí.
+
Phỏng vấn sâu: Phương pháp này được thực hiện đối với người đứng đầu cộng đồng
địa phương (trưởng bản) và người dân nhằm phát hiện các yếu tố đặc trưng, tìm
hiểu sâu các vấn đề trong phát triển du lịch tại địa phương, đặc biệt là các yếu
tố về văn hóa. Từ đó, nhóm nghiên cứu tiến hành xem xét, điều chỉnh bộ tiêu chí
đánh giá và bản khảo sát.
-
Nghiên cứu định lượng được thực hiện bằng việc điều tra khảo sát một mẫu đại diện
trong phạm vi không gian nghiên cứu thông qua một bảng hỏi trên cơ sở bộ tiêu
chí đa cấp đã được xây dựng, bao gồm các biến thang đo đo lường để thu thập kết
quả đánh giá từ phía người dân địa phương. Một phiếu khảo sát khác được thực hiện
đối với các chuyên gia có kinh nghiệm chuyên sâu trong lĩnh vực phát triển bền
vững, phát triển du lịch tại đại bàn nghiên cứu cũng dựa trên bộ tiêu chí ban đầu.
Trên cơ sở bộ tiêu chí đó, kỹ thuật xử lý định lượng được sử dụng để xác định
trọng số cho từng tiêu chí, xác định mức độ quan trọng và đóng góp của chúng
vào mục tiêu phát triển du lịch bền vững. Kết quả từ hai lần thu thập và phân
tích dữ liệu rút ra mức độ bền vững của phát triển du lịch bản Lác được thể hiện
ở một điểm số duy nhất (được gọi là điểm bền vững) dựa trên một thang đánh giá
tiêu chuẩn.
-
Công cụ phân tích:
+
Phần mềm hỗ trợ: IBM SPSS Statistics 23 và Expert Choice v11
+
Kỹ thuật phân tích: Kiểm định độ tin cậy của các tiêu chí Cronbach’s Alpha, Thống
kê mô tả, kỹ thuật đánh giá trọng số bằng phương pháp phân tích thứ bậc AHP.
Quá trình và các bước
thực hiện nghiên cứu được trình bày chi tiết ở các phần sau.
3.3.
Quy trình thực hiện đề tài
Quy trình nghiên cứu đánh giá phát triển du lịch bền vững
tại bản Lác được thực hiện trong khoảng thời gian ba tháng (từ giữa tháng
01/2017 đến giữa tháng 04/2017) qua các giai đoạn:
Từ việc tổng quan các nghiên cứu và các thước đo tính bền
vững của du lịch, nhóm nghiên cứu lấy cơ sở của việc đánh giá tính bền vững của
phát triển du lịch dựa trên các tiêu chí phát triển du lịch bền vững và thang
đánh giá mức độ bền vững (Barometer of Sustainability), được đề xuất bởi
Prescott-Allen và IUCN, 1996. Mức độ bền vững được thể hiện qua một điểm số duy
nhất là phương án rất trực quan và lý tưởng cho phép dễ dàng đánh giá trạng
thái bền vững không chỉ của mục tiêu bền vững (Goal) mà còn của các tiêu chí bậc
1 (Criterias) thông qua một thang đánh giá tiêu chuẩn. Giá trị điểm bền vững được
xác định qua việc thu thập số liệu cho thang đo tính bền vững, là một thang đo
Likert 5 điểm với mức độ tích cực tăng dần từ 1 đến 5, tương ứng với các mốc
giá trị bền vững trên thang đánh giá mức độ bền vững (Prescott-Allen, 1996)
trên phương diện người dân địa phương. Bên cạnh đó, cách thức đánh giá của đề
tài này kế thừa một phần từ công trình đo lường sự bền vững của du lịch sinh
thái của Lin và Lu, 2012, với việc áp dụng phương pháp phân tích thức bậc
(Analytic Hierachy Process) để xác định trọng số cho các tiêu chí phát triển du
lịch bền vững. Về tổng thể, việc đánh giá được thực hiện bằng công cụ tích hợp
các phương pháp khác nhau, mô hình đánh giá chi tiết được trình bày tại phần
3.4.1 đến 3.4.4. Qua các giai đoạn:
|
3.4.1.
Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá và thang đo lường phát triển du lịch bền vững tại
bản Lác
Các nghiên cứu về lý luận và thực tiễn
đều chỉ ra rằng ba trụ cột lớn của phát triển bền vững là kinh tế, xã hội và
môi trường. Trạng thái bền vững phải được tạo nên từ sự phát triển đồng đều ở cả
ba khía cạnh đó và đặc biệt chú trọng đến các vấn đề xã hội và môi trường, các
tiêu chí về phát triển du lịch bền vững cũng được hình thành từ cơ sở quan điểm
trên. Tuy nhiên, đánh giá trạng thái phát triển bền vững của một điểm du lịch cụ
thể là không dễ dàng bởi chưa thực sự có một bộ tiêu chí nào được coi là chuẩn
mực trong việc đánh giá tính bền vững của du lịch, hơn nữa vấn đề phát triển ở
các điểm du lịch khác nhau là không giống nhau, thậm chí hoàn toàn khác nhau do
các đặc điểm về tự nhiên – văn hóa – xã hội, loại hình du lịch, định hướng phát
triển… Vì vậy, các tiêu chí được xây dựng không chỉ dựa trên tổng hợp quan điểm
lý luận, mà còn phải quan tâm đến các yếu tố thực tiễn tại địa bàn nghiên cứu.
Nhận thức được vấn đề trên, nhóm nghiên cứu thực hiện xây dựng bộ tiêu chí đánh
giá phát triển du lịch bền vững tại bản Lác qua ba bước: Tổng hợp các tiêu chí
phù hợp từ các nghiên cứu trước; điều tra địa bàn nghiên cứu để phát hiện và bổ
sung; và tham vấn chuyên gia xác định bộ tiêu chí chính thức. Cấu trúc của bộ
tiêu chí đánh giá gồm 3 cấp bậc: Tiêu chí lớn/Khía cạnh bền vững
(Dimension/Criteria), tiêu chí thành phần (Sub-Criteria) và biến thang đo
(Indicators); việc xác định các tiêu chí được thực hiện từ cấp lớn nhất
(Criteria) đến các cấp nhỏ hơn.
Nhiều nhà nghiên
cứu đã đưa ra các quan niệm khác nhau về các khía cạnh phát triển du lịch bền vững,
các khía cạnh đó không chỉ còn bó gọn lại trong ba trụ cột lớn của phát triển bền
vững mà tùy thuộc vào trình độ phát triển và đặc trưng địa bàn nghiên cứu mà
phát triển và lựa chọn đánh giá trên nhiều khía cạnh khác nhau, bảng 3.2 tổng hợp
các nghiên cứu nổi bật về đánh giá phát triển du lịch bền vững và các tiêu chí
lớn (Dimension/Criteria) được sử dụng.
Bảng
3.2: Các khía cạnh phát triển du lịch bền vững
Tác giả |
Khía cạnh du lịch bền
vững (Dimension) |
Mowforth
& Munt, 1998 |
Kinh
tế, văn hóa-xã hội, môi trường |
Lozano-Oyola
và cộng sự, 2012 |
Xã
hội, kinh tế, môi trường |
Bossell,
1999; Mowforth & Munt,
1998 |
Sinh
thái, xã hội, kinh tế, thể chế/chính trị, văn hóa, công nghệ |
Ko,
2001 |
Thể
chế, kinh tế, văn hóa-xã hội, chất lượng sản phẩm và dịch vụ, tác động đến
môi trường, chất lượng hệ sinh thái, đa dạng sinh học, chính sách quản lý môi
trường. |
Chris
and Sirakaya, 2006 |
Kinh
tế, Xã hội, văn hóa, sinh thái, công nghệ |
Spilanis
và cộng sự, 2005 |
Kinh
tế, xã hội, môi trường |
Tsaur
và cộng sự, 2005 |
Kinh
tế, xã hội, môi trường |
García-Melón
và cộng sự, 2011 |
Bảo
vệ môi trường tự nhiên, các tác động đến môi trường địa phương, khía cạnh xã
hội, du lịch, quản lý và thể chế. |
Castellani
và Sala, 2010 |
Dân
số, Chỗ ở, Kinh tế và lao động, môi trường, du lịch |
Blancas
và cộng sự, 2010 |
Xã
hội, kinh tế, môi trường |
Lin
và Lu, 2012 |
Du
lịch, các nguồn lực, cộng đồng, kinh tế, xã hội |
Azizi
và cộng sự, 2011 |
Môi
trường, xã hội, kinh tế, sự hấp dẫn du lịch, thể chế, cơ sở hạ tầng |
D.
|
Kinh
tế, xã hội, môi trường |
Huang
và cộng sự |
Kinh
tế, xã hội, môi trường |
Wang
và cộng sự, 2013 |
Nguồn
lực, xã hội và kinh tế, môi trường, quản lý |
Uzun
và cộng sự, 2015 |
Phúc
lợi cộng đồng, giá trị tự nhiên và văn hóa, sự hài lòng về du lịch, giám sát
và quản lý |
Châu
và Nguyễn, 2014 |
Kinh
tế, xã hội, môi trường |
La,
2012 |
Kinh
tế, xã hội, môi trường |
Đinh,
2013 |
Kinh
tế, xã hội, tài nguyên – môi trường |
Bạch,
2011 |
Kinh
tế, xã hội, môi trường |
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Từ việc thực hiện tổng quan, nhóm
nghiên cứu phát hiện ra rằng phần lớn các nghiên cứu đều thực hiện phương pháp
thảo luận và tham khảo chuyên gia để lựa chọn các tiêu chí phát triển du lịch bền
vững, trong đó một phương pháp nổi bật được sử dụng là phương pháp Delphi, được
sử dụng trong nghiên cứu của Lin và Lu, 2012. Delphi là một quá trình thảo luận
có bài bản để các nhóm chuyên gia tích lũy thông tin và thể hiện tri thức,
thông qua các bảng câu hỏi trong hai hoặc nhiều vòng, sau mỗi vòng người hỗ trợ
cung cấp một bản tóm tắt bất kỳ các dự đoán của các chuyên gia từ vòng trước
cũng như lý do tại sao họ đưa ra để hỗ trợ cho lựa chọn của mình, mục đích là để
các chuyên gia cân nhắc sự lựa chọn của người khác và tiến tới một quan điểm
chung cuối cùng. Việc sử dụng phương pháp này của các nghiên cứu trước giúp
nhóm nghiên cứu lựa chọn các tiêu chí đánh giá có sự đồng thuận cao và mang
tính chắc chắn hơn. Nhóm đã tiến hành thảo luận và tham khảo các chuyên gia để
xác định các khía cạnh chính trong sự phát triển du lịch bền vững của bản Lác
sao cho các tiêu chí đó là phù hợp với lý luận chung và địa bàn nghiên cứu và bốn
tiêu chí lớn đã được lựa chọn: Kinh tế,
Văn hóa – Xã hội, Môi trường và Cộng đồng & phát triển du lịch. Trong
đó Cộng đồng & phát triển du lịch đề
cập tới các vấn đề và thực hiện phát triển du lịch và đáp ứng các nguyên tắc
phát triển du lịch dựa vào cộng đồng, là mô hình du lịch được thực hiện tại bản
Lác. Các tiêu chí thành phần và các biến đo lường được tiếp tục tổng hợp có chọn
từ các tác giả trên, ngoài ra còn có Priskin (2000), Miller (2001), WTO (1997)
và McCool (2001). Đồng thời nhóm nghiên cứu tiếp tục tham khảo chuyên gia và thực
hiện điều tra địa phương lần 1, thực hiện nghiên cứu định tính chủ yếu là quan
sát, phỏng vấn sâu người đứng đầu cộng đồng địa phương (trưởng bản) và người
dân địa phương nhằm phát hiện các vấn đề trong phát triển du lịch và các biến
đo lường đặc trưng. Cuối cùng, bộ tiêu chí và thang đo hoàn chỉnh được tham khảo
chuyên gia lần cuối và được sử dụng để thực hiện các bước nghiên cứu tiếp theo.
Bảng
3.3: Bộ tiêu chí đánh giá phát triển du lịch bền vững tại bản Lác
Mục
tiêu (Goal) |
Tiêu
chí (Criterias) |
Tiêu
chí thành phần (Sub-Criterias) |
Biến
đo lường (Indicators) |
Phát
triển du lịch bền vững |
Kinh
tế |
Ổn
định thu nhập |
Sự ổn định thu nhập hộ gia đình từ khi
làm du lịch |
Thu nhập từ du lịch tốt hơn nghề truyền
thống |
|||
Phân
phối thu nhập |
Người dân giữ lại được phần lớn doanh
thu du lịch |
||
Chính sách thuế, phí về du lịch hợp lý |
|||
Văn
hóa – Xã hội |
Mức
độ bảo tồn đặc trưng văn hóa địa phương |
Trang phục |
|
Nhà sàn |
|||
Điệu múa, bài hát dân tộc |
|||
Tiếng dân tộc |
|||
Lễ hội truyền thống |
|||
Tác
động bên ngoài đến văn hóa |
Sự mâu thuẫn văn hóa giữa các dân tộc
tại địa phương |
||
Sự xuất hiện của văn hóa khác |
|||
Ý
thức lưu giữ văn hóa dân tộc |
Truyền tải văn hóa địa phương cho
khách du lịch |
||
Lưu giữ văn hóa của người trẻ |
|||
Đóng
góp kinh tế cho bảo tồn tài nguyên nhân văn |
Duy trì giao lưu văn hóa từ nguồn thu
du lịch |
||
Cơ
hội giáo dục |
Nói và viết chữ quốc ngữ |
||
Đi học thuận tiện |
|||
Đời
sống dân cư |
Cải tạo nhà cửa |
||
Nước sạch |
|||
Điện |
|||
Dịch vụ y tế |
|||
Mua hàng tiêu dùng |
|||
An
ninh trật tự |
Mức độ thường
xuyên xảy ra trộm cắp |
||
Môi
trường |
Bảo
vệ tài nguyên tự nhiên và môi trường |
Bảo vệ rừng |
|
Bảo vệ đất nông nghiệp |
|||
Ảnh hưởng của bê tông hóa đến cảnh
quan |
|||
Xử lý rác thải |
|||
Ý
thức bảo vệ môi trường |
Tuyên truyền bảo vệ môi trường của
chính quyền địa phương |
||
Ý thức của khách du lịch |
|||
Hành động của cộng đồng địa phương |
|||
Cộng
đồng & phát triển du lịch |
Tương
tác giữa người dân và khách du lịch |
Thái độ phản ứng
khi gặp khách du lịch |
|
Khả năng sử dụng tiếng Anh |
|||
Giao lưu văn hóa với khách du lịch |
|||
Hỗ
trợ làm du lịch cho người dân địa phương |
Lợi ích nhận được từ các khóa học du lịch |
||
Hỗ trợ khác của nhà nước |
|||
Tiếp thu ý kiến người dân |
|||
Sức
tải du lịch |
Sự đáp ứng nhà ở homestay khi quá đông
khách du lịch |
||
Sự đáp ứng địa điểm tổ chức các hoạt động
giải trí khi quá đông khách du lịch |
Nguồn: Tổng hợp và đề xuất của tác
giả
3.4.2. Tiến hành khảo sát, kiểm định độ tin cậy của thang
đo và hiệu chỉnh bộ tiêu chí.
Một bảng hỏi đã được xây dựng để thu
thập sự đánh giá của người dân địa phương về mức độ bền vững của phát triển du
lịch bản Lác dựa trên bộ tiêu chí đánh giá. Các câu hỏi là các biến đo lường được
biên tập lại dưới một số dạng khác nhau để người được hỏi dễ dàng trả lời và đạt
được mục đích thu thập dữ liệu, giúp thông tin thu nhận được chính xác hơn tuy
nhiên vẫn phục vụ cho một thang đo Likert 5 điểm với mức độ tích cực tăng dần từ
1 đến 5. Bảng hỏi được thiết kế với 45 câu hỏi/mệnh đề đánh giá, với 4 câu hỏi
về thông tin cá nhân và 41 câu hỏi/mệnh đề phục vụ nội dung đánh giá phát triển
du lịch bền vững. Sau khi hoàn thành bảng hỏi được khảo sát thử nghiệm đồng thời
tham khảo chuyên gia để chỉnh sửa lần cuối trước khi thực hiện điều tra chính
thức.
Việc tiến hành khảo sát được thực hiện
trong khoảng thời gian từ 31/03/2017 - 01/04/2017 trên địa bàn bản Lác 1, Pom
Coọng, xã Chiềng Châu, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình. Đối tượng khảo sát là các
hộ gia đình tại bản, gần 100% số hộ gia đình ở đây đều làm du lịch, số lượng hộ
được khảo sát là 30 hộ. Với mỗi hộ gia đình, nhóm lựa chọn 01 người để tham gia
trả lời khảo sát là chủ hộ hoặc người trong gia đình thường xuyên tham gia các
công việc du lịch, hình thức trả lời là tự điền dưới sự giải thích và trình bày
của người hỏi. Kết quả thu thập cho thấy trong 30 phiếu được phát ra và thu về
đầy đủ, có một phiếu không hợp lệ vì không trả lời đầy đủ thông tin, số phiếu
còn lại đều được cung cấp đầy đủ số câu trả lời cần thiết.
Sau khi tiến hành khảo sát, nhóm
nghiên cứu kiểm định độ tin cậy của thang đo được sử dụng bằng phân tích hệ số
Cronbach’s Alpha qua phần mềm IBM SPSS Statistic 23. Mục đích của kiểm định này
là tìm hiểu xem các biến trong thang đo có cùng đo lường cho một khái niệm cần
đo hay không. Giá trị đóng góp nhiều hay ít được phản ánh qua hệ số tương quan
biến tổng Corrected Item – Total Correlation. Qua đó, cho phép loại bỏ những biến
và tiêu chí không phù hợp trong bộ tiêu chí đánh giá. Quy tắc kiểm định như
sau, đưa ra bởi Hair (2009):
α < 0,6:
Thang đo không phù hợp
0,6 ≤ α < 0,7:
Chấp nhận được với các nghiên cứu mới hoặc mới đối với người trả lời trong bối
cảnh nghiên cứu.
0,7 ≤ α < 0,8:
Chấp nhận được
0,8 ≤ α < 0,95:
Tốt
α ≥ 0,95:
Chấp nhận được nhưng không tốt, có thể xảy ra hiện tượng trùng biến.
Bên cạnh đó, hệ số tương quan biến tổng
cho biết mức độ lien kết giữa một biến quan sát trong nhân tố với các biến còn
lại. Nó phản ánh mức độ đóng góp vào giá trị khái niệm của nhân tố của một biến
quan sát cụ thể, tiêu chuẩn để đánh giá một biến có thực sự đóng góp giá trị
vào nhân tố hay không là hệ số này phải lớn hơn 0,3.
3.4.3. Xác định trọng số
của các tiêu chí bằng phương pháp phân tích thứ bậc – Analytic Hierachy Process
(AHP)
Trong bước nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu thực hiện xác
định trọng số (mức độ quan trọng) của các tiêu chí trong bộ tiêu chí đánh giá bằng
phương pháp phân tích thứ bậc. Phương pháp phân tích thứ bậc hay phương pháp
phân tích hệ thống phân cấp – Analytic Hierachy Process (AHP) được đề xuất bởi
Thomas L.Saaty trong những năm 1970 và đã được mở rộng, bổ sung cho đến nay.
Phương pháp AHP được áp dụng rộng rãi cho nhiều lĩnh vực như khoa học tự nhiên,
kinh tế, xã hội, y tế… Nó được coi như một phương pháp mạnh mẽ và linh hoạt cho
việc phân tích quyết định với nhiều tiêu chí (Saaty, 1980); đây là phương pháp
trực quan và tương đối dễ dàng để xây dựng và phân tích quyết định (Harker,
1989), một công cụ cho phép nhìn rõ ràng các tiêu chí thẩm định và cũng là một
phương pháp quyết định nhiều thuộc tính, trong đó đề cập đến một kỹ thuật định
lượng (DeSteiguer, 2003). Tóm lại AHP giải quyết những vấn đề không có cấu trúc
trong hoạt động kinh tế, xã hội và khoa học quản lý, nó cung cấp một phương
pháp ra quyết định đa tiêu chuẩn đơn giản, nhưng có cơ sở lý thuyết trong việc
đánh giá các phương án. Nó giúp phân loại mức độ ưu tiên tương đối cho các
phương án được đưa ra dựa trên một mức tỉ lệ.
Mức tỉ lệ này dựa trên phán đoán của người ra quyết định và mức độ quan trọng của
các phán đoán đó, cũng như tính nhất quán trong việc so sánh các phương án
trong quá trình ra quyết định. Tuy nhiên trong khuôn khổ nghiên cứu này AHP được
sử dụng để xác định mức độ ưu tiên (trọng số) cho các tiêu chí đã có. Mô hình
thực hiện đánh giá trọng số được thể hiện ở hình 2.3 được tổng hợp từ tác giả
Phạm Hồng Luân:
Vấn đề được xác định ở đây là sự ưu tiên trong phát triển du lịch bền vững giữa các tiêu chí,
việc sử dụng thuật toán AHP nhằm đánh trọng số cho các tiêu chí này dựa trên thu thập ý kiến chuyên gia. Cấu trúc thứ bậc các tiêu chí chính là cấu trúc của bộ tiêu chí đánh giá bao gồm ba bậc: Khía cạnh bền vững/Tiêu chí lớn (Criteria), Tiêu chí thành phần (Sub-Criteria) và các biến đo lường (Indicators). Một bảng hỏi được thiết kế riêng để thu thập sự đánh giá của các chuyên gia về mức độ quan trọng tương đối giữa mỗi 2 tiêu chí hay là sự so sánh các cặp tiêu chí cùng phản ảnh một tiêu chí ở bậc cao hơn, bảng hỏi được trình bày ở phụ lục 2, mức độ so sánh cặp được thể hiện ở bảng 3.4. Theo bảng này, ví dụ, nếu tiêu chí A quan trọng hơn tiêu chí B và được đánh giá ở mức 5, khi đó B ít quan trọng hơn với A và có giá trị đánh giá là 1/5. |
Bảng
3.4: Bảng xếp hạng các mức độ so sánh cặp trong thuật toán AHP
Mức độ quan trọng |
Giá trị |
Giải thích |
Quan
trọng như nhau |
1 |
Hai tiêu chí có mức độ
quan trọng như nhau |
Quan
trọng như nhau cho đến hơi quan trọng hơn |
2 |
Tiêu chí này hơi quan trọng
hơn tiêu chí kia |
Quan
trọng vừa phải |
3 |
Tiêu chí này có mức độ
quan trọng vừa phải so với tiêu chí kia |
Quan
trọng vừa phải đến khá quan trọng |
4 |
Tiêu chí này khá quan trọng
so với tiêu chí kia |
Quan
trọng hơn |
5 |
Tiêu chí này có mức độ
quan trọng rõ ràng so với tiêu chí kia |
Quan
trọng hơn đến rất quan trọng |
6 |
Tiêu chí này quan trọng
hơn nhiều tiêu chí kia |
Rất
quan trọng |
7 |
Tiêu chí này rất quan trọng
so với tiêu chí kia |
Rất
quan trọng đến vô cùng quan trọng |
8 |
Tiêu chí này có mức độ
quan trọng rất cao so với tiêu chí kia |
Vô
cùng quan trọng |
9 |
Tiêu chí có mức độ tuyệt đối
quan trọng |
Nguồn: Saaty (1990)
Các
chuyên gia được lựa chọn khảo sát là những người có nhiều kinh nghiệm trong
lĩnh vực phát triển bền vững và phát triển du lịch, số lượng chuyên gia tham
gia là 4 người, trong đó có 2 chuyên gia phát triển bền vững và 2 chuyên gia về
du lịch. Trong trường hợp có nhiều chuyên gia tham gia đánh giá kết quả sẽ phải
được tổng hợp thông qua thuật toán, tuy nhiên trường hợp nghiên cứu này số lượng
chuyên gia là nhỏ, kết quả đánh giá cho mỗi cặp tiêu chí của các chuyên gia sẽ
được lấy trung bình và đưa vào phần mềm Expert Choice v11 để xử lý (với giả định
ý kiến đánh giá của các chuyên gia được tôn trọng như nhau). Các bước xử lý số
liệu theo thuật toán AHP như sau:
Bước
1: Lập ma trận so sánh cặp:
Để mô tả ý kiến đánh
giá của các chuyên gia về mức độ quan trọng của mỗi tiêu chí đối với tiêu chí ở
cấp cao hơn cần thực hiện so sánh từng cặp. Giả sử chúng ta so sánh một bộ gồm
n tiêu chí, được ký hiệu là A1, A2,…An được diễn
tả bằng một ma trận so sánh cặp A kích thước nxn, chưa các phần tử aij.
Nếu như trọng số các phần tử của ma trận A là aij thì ma trận (a) thể
hiện việc so sánh từng cặp. Trong ma trận so sánh cặp, một giá trị của ma trận
là giá trị nghịch đảo của nửa kia đối xứng qua đường chéo chính của ma trận, tức
là aji=aij-1 (i tính theo hang, j tính theo cột).
Bước
2: Chuẩn hóa ma trận:
Việc chuẩn hóa ma trận so sánh cặp được thực hiện bằng cách chia mỗi phần tử trong từng cột của ma trận với giá trị tổng tương ứng. Điều này sẽ cung cấp sự so sánh có ý nghĩa giữa các yếu tố trong sơ đồ thứ bâc. Ma trận chuẩn hóa có dạng như sau
Bước 3: Véc tơ độ ưu tiênTa lấy trung bình theo
dòng của ma trận chuẩn hóa, tức là giá trị của mỗi hang trong ma trận mới được
tính ở bước trên sẽ được lấy tổng và chia cho số cột thể hiện các yếu tố so
sánh. Véc tơ độ ưu tiên có dạng như sau:
Bước
4: Đo lường sự không nhất quán:
Saaty (1994) đã định
nghĩa sự nhất quán như sau: “Những cường độ giữa những ý tưởng hay đối tượng có
liên quan nhau dựa trên một tiêu chuẩn cụ thể để hiệu chỉnh lẫn nhau trong cùng
một phương pháp so sánh hợp lý”. Từ đó Saaty đã đề ra các bước đo lường sự
không nhất quán như sau:
+ Xác định véc tơ tổng
có trọng số bằng cách nhân ma trận so sánh cặp với véc tơ độ ưu tiên: T = A.w (d)
+ Xác định véc tơ nhất
quán bằng cách chia tương ứng véc tơ tổng có trọng số cho véc tơ độ ưu tiên: P = T/w (e)
+ Xác định giá trị đặc
trưng cực đại 𝜆:
𝜆max
=
+ Xác định trị số nhất
quán CI (Consistency Index) theo công thức của Saaty:
+ Xác định tỉ số nhất
quán CR (Consistency Ratio):
Trong đó: n là kích thước
của ma trận và RI là chỉ số ngẫu nhiên (Random Index – nhất quán trung bình) được
xác định từ bảng 3.6:
Bảng
3.6: Giá trị chỉ số ngẫu nhiên – Random Index
N |
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
RI |
0,0 |
0,0 |
0,58 |
0,90 |
1,12 |
1,24 |
1,32 |
1,41 |
1,49 |
1,51 |
1,51 |
1,54 |
1,56 |
1,57 |
1,58 |
Nguồn:
Saaty (1990)
Nếu tỉ số nhất quán CR
< 10% (CR < 0,1) thì các trọng số của các tham số vừa tính đạt yêu cầu, nếu
CR > 10% thì thu thập lại dữ liệu và tiếp tục làm từ bước 1.
Bước
5: Véc tơ tổng hợp trọng số:
Véc tơ tổng hợp trọng số
chính là giá trị véc tơ độ ưu tiên trung bình của tất cả các chuyên gia đánh
giá sau khi đã đo lường sự không nhất quán. Kết quả cuối cùng của véc tơ tổng hợp
trọng số là các véc tơ wi cho các tiêu chí thuộc nhóm tiêu chí thứ
i, wG cho tất cả các nhóm.
3.4.4. Xác định điểm bền
vững và kết luận về tính bền vững của mô hình du lịch tại bản Lác:
Kết quả đánh giá mức độ
bền vững là một điểm số duy nhất được gọi là điểm bền vững đối với mục tiêu phát triển du lịch bền vững (Goal)
và các tiêu chí lớn (Dimension/Criteria) và mức độ đáp ứng yêu cầu đối với các biến đo lường (Indicator), việc
tính toán dựa trên công thức chung dưới đây:
S =
Trong đó: S là điểm bền
vững du lịch (0 ≤ Si ≤ 100)
Mi
là trung bình đánh giá của người dân địa phương cho tiêu chí i
(0
≤ Mi ≤ 100)
xi
là trọng số của tiêu chí i (0 ≤ xi ≤ 1)
Kết quả điểm bền vững
(S) sẽ được so sánh với bảng tiêu chuẩn đánh giá mức độ bền vững (Barometer of
Sustainability, Prescott-Allen & IUCN, 1996), điểm đánh giá của người dân
được quy đổi hợp lý với thang đánh giá:
Bảng
3.7: Thang đánh giá mức độ bền vững
Điểm bền vững |
Thang đánh giá |
|||
Điểm bền vững |
Giá trị mã hóa (theo thang Likert) |
Khoảng giá trị |
Trạng thái bền vững |
Tiêu chí thành phần và biến đo lường |
10 |
1 |
0
– 20 |
Không
bền vững |
Kém |
30 |
2 |
21
– 40 |
Không
bền vững tiềm tang |
Không
tốt |
50 |
3 |
41
– 60 |
Trung
bình |
Trung
bình |
70 |
4 |
61
– 80 |
Bền
vững tiềm năng |
Tốt |
90 |
5 |
81
– 100 |
Bền
vững |
Rất
tốt |
Nguồn: IUCN, Prescott-Allen (1996)và
tổng hợp của tác giả
Bên cạnh thang đánh giá 5 khoảng giá
trị như trên, Prescott-Allen (1996) còn đề xuất các dạng thang đánh giá 4 mức độ
(không bền vững, không bền vững tiềm tang, bền vững tiềm năng, bền vững), 3 mức
độ (không bền vững, trung bình, bền vững) và 2 mức độ (không bền vững, bền vững)
hay các thang đo quy đổi với các mốc điểm từ 1-5. Tuy nhiên thang đánh giá gốc
vẫn được coi là chuẩn mực và có khả năng đánh giá chính xác mức độ bền vững hơn
cả. Trong nghiên cứu này thang đo của nhóm lựa chọn các mốc điểm là trị số giữa
của các khoảng giá trị bền vững để thực hiện đánh giá, với giả định rằng không
có mô hình du lịch nào tuyệt đối bền vững (điểm bền vững bằng 100) và cũng
không có mô hình du lịch nào tuyệt đối không bền vững (điểm bền vững bằng 0),
và các giá trị này xác định trạng thái bền vững cần thiết, ví dụ để đạt mức độ
bền vững tiềm năng (61-80 điểm) cần thiết, tiêu chí Kinh tế cần được đánh giá ít nhất 70 điểm, từ 61-70 điểm là chưa ổn
định.
CHƯƠNG
4: KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ VÀ THẢO LUẬN VỀ MỨC ĐỘ BỀN VỮNG CỦA MÔ HÌNH DU LỊCH BẢN LÁC
4.1. Kiểm định độ tin cậy
Cronbach’s Alpha cho thang đo tính bền vững
Như
đã trình bày ở phần phương pháp nghiên cứu, thang đo tính bền vững của du lịch
tại bản Lác được xây dựng từ việc tổng hợp có chọn lọc các tiêu chí, nhóm tiêu
chí và các biến đo lường của các kết quả nghiên cứu trước, kết hợp với nghiên cứu
định tính phát hiện các tiêu chí đặc trưng của địa phương, nhận định sự phù hợp
của các tiêu chí được lựa chọn với địa bàn nghiên cứu. Vì vậy nhóm tiến hành kiểm
định độ tin cậy của các biến đo lường bằng kiểm định Cronbach’s Alpha đối với
các tiêu chí phụ (Sub-Criterias) được phản ánh bằng hai biến đo lường trở lên
(12/14 tiêu chí) để đảm bảo thang đo đã được sử dụng là đáng tin cậy.
Bảng
4.1:Kết quả kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha
STT |
Tiêu
chí phụ |
Số
biến thang đo |
Hệ
số Cronbach’s Alpha |
Hệ
số Cronbach’s Alpha lớn nhất nếu loại bỏ biến |
Hệ
số tương quan biến tổng nhỏ nhất |
1 |
Ổn định thu nhập |
2 |
0,818 |
- |
0,694 |
2 |
Phân phối thu nhập |
2 |
0,785 |
- |
0,784 |
3 |
Mức độ bảo tồn đặc trưng văn hóa địa
phương |
5 |
0,812 |
0,806 |
0,518 |
4 |
Tác động bên ngoài đến văn hóa |
2 |
0,810 |
- |
0,685 |
5 |
Khả năng lưu giữ văn hóa dân tộc |
2 |
0,806 |
- |
0,701 |
6 |
Cơ hội giáo dục |
2 |
0,751 |
- |
0,700 |
7 |
Đời sống dân cư |
5 |
0,818 |
0,810 |
0,508 |
8 |
Bảo vệ tài nguyên tự nhiên và môi trường |
4 |
0,811 |
0,779 |
0,637 |
9 |
Ý thức bảo vệ môi trường |
3 |
0,717 |
0,675 |
0,589 |
10 |
Tương tác giữa người dân và khách du lịch |
3 |
0,812 |
0,772 |
0,644 |
11 |
Hỗ trợ làm du lịch cho người dân địa
phương |
3 |
0,802 |
0,798 |
0,588 |
12 |
Sức tải du lịch |
2 |
0,755 |
- |
0,658 |
Nguồn:
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS
Kết quả trên cho thấy tất cả các tiêu chí đều có hệ
số Cronbach’s Alpha > 0,7 và là hệ số lớn nhất có thể, các hệ số tương quan
biến tổng đều > 0,3 đảm bảo thang đo có độ tin cậy cao. Kết quả khảo sát đủ
điều kiện được sử dụng để tiến hành thực hiện các bước nghiên cứu tiếp theo.
4.2. Mức độ quan trọng (trọng số) của các tiêu chí, nhóm
tiêu chí từ phân tích AHP
Trọng
số của các tiêu chí không chỉ cho phép thực hiện tính toán điểm bền vững mà còn
thể hiện mức độ ưu tiên (mức độ đóng góp) của chúng trong thực hiện chiến lược
phát triển du lịch, căn cứ vào đó nhà quản lý có thể biết vấn đề gì cần được
quan tâm nhiều hơn. Kết quả cho thấy đối với 4 tiêu chí lớn về phát triển du lịch
bền vững trọng số của chúng không có sự chênh lệch nhiều xong vẫn thể hiện độ
ưu tiên khá rõ ràng, Kinh tế được
đánh giá là quan trọng nhất với trọng số 0,281; ít được ưu tiên nhất là Cộng đồng và phát triển du lịch với
0,219 trong khi hai tiêu chí Văn hóa – Xã
hội và Môi trường có tầm quan trọng như nhau và bằng 0,25.
Biểu đồ 4.1: Mức
độ đóng góp của các khía cạnh du lịch bền vững theo chuyên gia
Nguồn:
Xử lý số liệu của tác giả
Bảng 4.2: Bảng kết quả so sánh cặp
các tiêu chí lớn về phát triển du lịch bền vững
Phát
triển du lịch bền vững |
Kinh tế |
Văn hóa – Xã hội |
Môi trường |
Cộng đồng và
phát triển du lịch |
Kinh tế |
|
8/9 |
8/9 |
7/9 |
Văn hóa – Xã hội |
|
|
8/8 |
7/8 |
Môi trường |
|
|
|
7/8 |
Cộng đồng và phát triển du lịch |
|
|
|
|
Nguồn:
Thu thập từ chuyên gia
Ở các cấp tiêu chí nhỏ hơn mức độ
quan trọng cũng được thể hiện khá rõ ràng, các tiêu chí thành phần có trọng số
cao nhất bao gồm: Phân phối thu nhập (Kinh
tế) – 0,667; Đời sống dân cư (Văn hóa
– Xã hội) – 0,172; Bảo vệ tài nguyên tự nhiên và môi trường, Ý thức bảo vệ
môi trường (Môi trường) được đánh giá
là quan trọng ngang nhau – 0,5; Hỗ trợ làm du lịch cho người dân địa phương (Cộng đồng và phát triển du lịch) –
0,362.
Đối với cấp tiêu chí nhỏ nhất là các
biến thang đo, ngoài hai trường hợp đặc biệt có trọng số bằng 1 là “Duy trì
giao lưu văn hóa từ nguồn thu du lịch” và “Mức độ thường xuyên xảy ra trộm cắp”
do chỉ được đo lường bằng 1 biến thì ở các nhóm tiêu chí khác mức độ quan trọng
được thể hiện khá rõ ràng bởi sự chênh lệch trọng số đáng kể. Kết quả tỷ số nhất
quán CR cho biết tất cả các giá trị đều < 10%, như vậy đánh giá của các
chuyên gia là khá đồng nhất và độ tin cậy cao.
4.3.
Điểm bền vững và thảo luận về tính bền vững của mô hình du lịch bản Lác
Dựa vào công thức ở phần 2.4.4 điểm
bền vững của mục tiêu (Goal) và các tiêu chí lớn (Criteria) đã được tính toán dựa
trên kết quả đánh giá từ thang đo và trọng số của các tiêu chí. Các tiêu chí
thành phần và các chỉ số/thang đo cũng được đánh giá mức độ đáp ứng yêu cầu.
Bảng
4.4: Điểm bền vững của mô hình du lịch dựa vào cộng đồng tại bản Lác
Nội dung đánh giá |
Phát triển du
lịch bền vững |
Kinh tế |
Văn hóa – Xã hội |
Môi trường |
Cộng đồng và
phát triển du lịch |
Điểm bền vững |
66,26 |
73,02 |
73,59 |
58,25 |
58,38 |
Trạng thái bền vững |
Tiềm năng |
Tiềm năng |
Tiềm năng |
Chưa bền vững |
Chưa bền vững |
Nguồn:
Tổng hợp của tác giả
Kết
quả tính toán cho thấy tất cả các mức đểm sự bền vững đều nằm trong khoảng
41-60 (Trung bình) và 61-80 (Bền vững tiềm năng), ngoài ra một số điểm đánh giá
các tiêu chí thành phần và thang đo ở dưới mức trung bình (20-40 điểm.) Cụ thể
điểm của các tiêu chí Kinh tế và Văn hóa – Xã hội lần lượt là 73,02 và 73,59 – đạt trạng thái bền
vững tiềm năng. Tiêu chí Môi trường đạt
điểm 58,25 và Cộng đồng và phát triển du lịch là 58,38; hai tiêu chí này có điểm số nằm ở mức trung bình, tức là chưa bền vững. Tuy nhiên nếu phân tích
kỹ hơn ta có thể thấy điểm bền vững của hai tiêu chí Môi trường và Cộng đồng và
phát triển du lịch gần đạt điểm tuyệt đối của mức trung bình và nằm sát mức
bền vững tiềm năng (61 điểm). Trong khi đó Kinh
tế và Văn hóa – Xã hội vượt qua mức
bền vững tiềm năng cần thiết (70 điểm) và có thể kết luận có khả năng duy trì ổn
định trạng thái bền vững này. Biểu đồ 4.2 cho thấy sự so sánh trực quan giữa mức
độ bền vững của các khía cạnh này, các điểm bền vững tiến càng sát về mốc 100
thì càng bền vững.
66,26 là
điểm bền vững của cả mô hình du lịch tại bản Lác, từ đó có thể kết luận rằng mô
hình du lịch này đạt trạng thái bền vững
tiềm năng. Bền vững tiềm năng được hiểu là khả năng đạt được trạng thái bền
vững trong tương lai và đang duy trì một cách ổn định các yếu tố tạo nên sự bền
vững, tuy nhiên điểm du lịch bản Lác
vẫn chưa chạm đến mức bền vững tiềm năng cần thiết (70 điểm). Phần dưới sẽ phân
tích kỹ hơn về các khía cạnh thiếu bền vững và một số vấn đề còn tồn tại của
các khía cạnh được đánh giá là bền vững.
4.3.1.
Trạng thái bền vững của tiêu chí Kinh tế và Văn hóa – Xã hội (Bền vững tiềm
năng)
Như
đã nói ở trên, hai khía cạnh Kinh tế và
Văn hóa – Xã hội có mức độ bền vững
tiềm năng, điều này khẳng đinh du lịch bản Lác đã và đang cho thấy những tác động
thật sự tích cực đối với cộng đồng dân tộc sinh sống tại đây. Tất cả người dân
địa phương được khảo sát đều cho rằng du lịch giúp gia đình họ có thu nhập ổn định
và tốt hơn các nghề truyền thống trước đây như trồng lúa, dệt vải. Cuộc sống của
họ trước đây đều dựa chủ yếu vào các công việc đó, việc trồng lúa theo thời vụ
chỉ có khả năng đáp ứng đủ nhu cầu lương thực của gia đình, không sản xuất với
sản lượng lớn nên gần như không gia tăng được nguồn thu từ việc buôn bán lúa gạo.
Công việc dệt vải và nghề truyền thống và mang đậm bản sắc của người Thái tại
đây, đây là nghề “có từ khi sinh ra” và người Thái làm công việc này từ khi còn
trẻ tuổi đến khi đã già, từ lúc còn ít được biết đến, khách du lịch không nhiều
và ít bán được hàng thì giờ thu nhập từ các sản phẩm thủ công là khá tốt, bên cạnh
việc dệt vải và các sản phẩm truyền thống người dân địa phương còn cung cấp dịch
vụ cho thuê đồ thổ cẩm và hợp tác với các doanh nghiệp may mặc để cho ra những
sản phẩm phù hợp với nhu cầu khách du lịch hơn mà vẫn giữ được nét văn hóa đặc
trưng. Công việc chủ yếu trong lĩnh vực du lịch vẫn là cung cấp nhà ở homestay,
rất nhiều nghề mới đã xuất hiện và giúp người dân địa phương có thêm nhiều công
ăn việc làm như lái xe, trồng hoa, cho thuê xe du lịch, biểu diễn văn nghệ…
Tiêu chí |
Điểm bền vững |
Tiêu chí thành phần |
Điểm đánh giá |
Thang đo |
Điểm đánh giá |
Kinh tế |
73,02 |
Ổn định thu nhập |
79,08 |
Sự ổn định thu nhập hộ gia đình từ khi làm du lịch |
76,21 |
Thu nhập từ du lịch tốt hơn nghề truyền thống |
79,66 |
||||
Phân phối thu nhập |
70,00 |
Người dân giữ lại được phần lớn doanh thu du lịch |
73,45 |
||
Chính sách thuế, phí về du lịch hợp lý |
49,31 |
Nguồn:
Kết quả tính toán của tác giả
Mặc
dù lợi ích kinh tế của du lịch là không phải bàn cãi nhưng chính sách về mặt
kinh tế lại chưa có được sự đồng thuận của đa số người dân, sự hợp lý của chính
sách thuế và phí cho du lịch chỉ được đánh giá ở mức trung bình và chưa đáp ứng
được yêu cầu về mặt kinh tế, sự phàn nàn của họ tập trung vào hai ý kiến. Thứ
nhất, chính sách thuế phí không hợp lý và cân xứng với sự hỗ trợ của nhà nước
cho việc làm du lịch, điều này dễ hiểu bởi nhà nước bắt đầu thực hiện thu thuế
chỉ khi du lịch tại đây đã phát triển, trong khi hầu như toàn bộ việc tổ chức
và thực hiện đều do người dân tự vận động và tranh thủ sự giúp đỡ của làng xóm
từ đầu, sự hỗ trợ của nhà nước cho người dân phát triển du lịch là rất hạn chế.
Thứ hai, có quan điểm cho rằng du lịch tại bản Lác là du lịch homestay, khách
du lịch trực tiếp ăn ngủ và trải nghiệm cuộc sống cộng đồng địa phương vì vậy
chỉ có thể coi như khách trong nhà, việc thu thuế là bất hợp lý. Mặt khác, nhóm
phát hiện ra rằng thuế du lịch tại đây là không cao và khá có lợi cho phía cộng
đồng, cụ thể một hộ gia đình làm du lịch homestay chỉ phải đóng thuế môn bài
khoảng 300 nghìn đồng/năm và sự phàn nàn của người dân địa phương không nhằm
vào lượng thuế phải đóng. Vấn đề này yêu cầu cần phải có cách giải quyết hợp cả
lý và tình.
Bảng
4.6: Điểm bền vững và điểm đánh giá các tiêu chí về Văn hóa – Xã hội
Tiêu chí |
Điểm bền vững |
Tiêu chí thành phần |
Điểm đánh giá |
Chỉ số/Thang đo |
Điểm đánh giá |
Văn hóa – Xã hội |
73,59 |
Mức độ bảo tồn đặc trưng văn hóa địa phương |
75,11 |
Trang phục |
76,21 |
Nhà sàn |
73,45 |
||||
Điệu múa, bài hát dân tộc |
53,45 |
||||
Tiếng dân tộc |
86,55 |
||||
Lễ hội truyền thống |
85,17 |
||||
Tác động bên ngoài đến văn hóa |
84,05 |
Sự mâu thuẫn văn hóa giữa các dân tộc tại địa phương |
84,48 |
||
Sự xuất hiện của văn hóa khác |
81,03 |
||||
Ý thức lưu giữ văn hóa dân tộc |
66,21 |
Truyền tải văn hóa địa phương cho khách du lịch |
67,24 |
||
Lưu giữ văn hóa của người trẻ |
65,86 |
||||
Đóng góp kinh tế cho bảo tồn tài nguyên nhân văn |
47,24 |
Duy trì giao lưu văn hóa từ nguồn thu du lịch |
47,24 |
||
Cơ hội giáo dục |
84,64 |
Nói và viết chữ quốc ngữ |
86,55 |
||
Đi học thuận tiện |
82,41 |
||||
Đời sống dân cư |
71,72 |
Cải tạo nhà cửa |
81,72 |
||
Nước sạch |
83,79 |
||||
Dịch vụ y tế |
72,76 |
||||
Điện |
54,14 |
||||
Mua hàng tiêu dùng |
67,24 |
||||
An ninh trật tự |
87,24 |
Mức độ thường xuyên xảy ra trộm cắp |
87,24 |
Nguồn:
Kết quả tính toán của tác giả
Văn
hóa là điểm sáng trong phát triển du lịch tại bản Lác, mô hình du lịch dựa vào
cộng đồng tại đây còn được gọi là du lịch văn hóa. Các yếu tố về văn hóa được
người dân bảo vệ và lưu giữ một cách có ý thức, các tác động bên ngoài gần như
không gây ảnh hưởng đến các giá trị nhân văn tại địa phương. Tại bản Lác có nhiều
dân tộc cùng sinh sống và kết quả đánh giá cho thấy không hề có sự mâu thuẫn giữa
các dân tộc tại đây, theo cộng đồng địa phương các dân tộc tại bản có sự đoàn kết
cao và hỗ trợ nhau trong mọi hoạt động, điều này có thể thấy trong các dịp lễ hội
hay mỗi khi một gia đình trong bản có việc lớn như xây nhà, cưới hỏi,… Ngoài ra
dân của các bản khác không được phép mua đất xây nhà trong Bản Lác, không phải
dân bản địa sẽ không được phép đầu tư, toàn bộ đất trong bản được truyền từ đời
này sang đời khác. Do đó, tính tiếp nối các thế hệ làm du lịch là rất rõ ràng.
Mặc dù cuộc sống hiện nay mang theo nhiều nền văn hóa mới lạ và hiện đại, người
trẻ ở bản Lác vẫn có ý thức gìn giữ văn hóa truyền thống khá tốt, được đánh giá
ở mức 65,86/100 điểm. Điểm trừ về mặt bảo tồn đặc trưng văn hóa là việc tiếp nối
các điệu múa, bài hát truyền thống của người dân địa phương. Thực tế cho thấy,
các điệu múa hay lời hát nguyên bản dân tộc Thái nguyên bản chỉ còn lại rất ít
trong nội dung biểu diễn văn hóa cho khách du lịch xem, các tiết mục biểu diễn
thường bị pha tạp từ các dân tộc khác nhau và có sự “cách tân” trong giai điệu
và lời hát. Bên cạnh đó, chỉ còn một số ít người dân cao tuổi là còn lưu giữ được
các bài hát nguyên bản, theo cộng đồng tại đây một phần các làn điệu này khá
khó học và ít hấp dẫn hơn phong cách nhạc hiện đại. Ngoài ra, dù vẫn gìn giữ được
các nét đẹp truyền thống của trang phục dân tộc Thái nhưng người dân trong bản
đã không còn thường xuyên mặc các trang phục này mà chỉ mặc trong các dịp lễ hội,
thông thường họ chuyển sang sử dụng đồ của người Kinh. Điều này phần nào đó khiến
khách du lịch ít có thiện cảm hơn và không hài lòng theo mong muốn của họ. Các
vấn đề khác về mặt văn hóa – xã hội tại đây theo điều tra bao gồm sự đóng góp
kinh tế vào văn hóa và thiếu ổn định của mạng lưới điện. Theo ý kiến thu thập từ
cộng đồng địa phương, mạng lưới điện thường không ổn định vào các ngày đông
khách du lịch, thường xuyên xảy ra hiện tượng mất điện vì quá tải. Nguồn thu từ
các hoạt động du lịch dành cho văn hóa chỉ là thù lao từ các buổi biểu diễn văn
nghệ, không có bất kỳ hoạt động bảo tồn hay truyền dạy văn hóa nào nhận được sự
hỗ trợ về mặt kinh tế.
4.3.2. Trạng thái bền vững
của hai tiêu chí Môi trường và Cộng đồng & phát triển du lịch (Chưa bền vững)
Mặc dù hai tiêu chí này có điểm bền
vững xấp xỉ đạt mức bền vững tiềm năng (61-80 điểm) nhưng kết quả đánh giá
không thể làm hài lòng khi số lượng các biến thang đo và tiêu chí có điểm đánh
giá ở mức trung bình lại chiếm ưu thế. 3 trên 4 biến thang đo cho tiêu chí Bảo vệ tài nguyên tự nhiên và môi trường được
đánh giá < 60 điểm, trong đó thấp nhất là Ảnh hưởng của bê tông hóa đến cảnh quan và môi trường với 24,48 - ở
mức dưới trung bình. Thực tế cho thấy, rất nhiều ao hồ đã bị chuyển thành bãi đỗ
xe cho du khách và các công trình bê tông xuất hiện ngày càng nhiều làm ảnh hưởng
lớn tới cảnh quan của bản. Kiến trúc truyền thống nhà sàn bên cạnh ao nhỏ đã bị
mai một đi rất nhiều, theo quan sát của nhóm gần như không còn ao hồ gắn với
nhà sàn tại khu vực bản, ngoài ra số lượng cây xanh giảm nhiều khiến hình ảnh Bản
Lác không còn đẹp như trước đây. Việc xây dựng nhà cửa bằng bê tông không chỉ
gây ảnh hưởng tiêu cực đến cảnh quan tự nhiên mà còn ảnh hưởng đến yếu tố văn
hóa. Nhà sàn tại bản Lác vốn được dựng từ 100% các nguyên vật liệu từ tự nhiên
như gỗ, nứa,… gắn với ao hồ đã tạo nên một nét đặc trưng văn hóa riêng biệt,
các công trình bê tông không được thiết kế bài bản khiến phần nào làm mất đi
nét đẹp của các ngôi nhà sàn truyền thống của người dân tộc tại đây. Bên cạnh
đó, việc xây dựng các con đường nội thôn và liên thôn trong thời gian dài làm
sinh ra nhiều bụi, ảnh hưởng tới không khí tại bản. Ý thức của khách du lịch tại bản Lác được
đánh giá chưa cao, hầu hết các ý kiến đều cho rằng khách du lịch nước ngoài có
ý thức hơn trong việc giữ gìn vệ sinh chung so với khách du lịch trong nước.
Trong khi đó nhận thức về việc bảo vệ môi trường từ phía chính quyền và cộng đồng
địa phương là khá tốt, người dân thường xuyên được nhắc nhở về vấn đề môi trường
trong các cuộc họp thôn, xã; có một số lượng đáng kể poster tuyên truyền về bảo
vệ môi trường tại điểm du lịch và đặc biệt luôn có các buổi dọn vệ sinh chung
do Đoàn thanh niên xã thực hiện đều đặn vào chủ nhật hàng tuần trong một vài
năm trở lại đây. Vấn đề đáng lưu tâm nữa là xử lý rác thải, theo đánh giá của
người dân địa phương rác thải tại đây vẫn được xử lý một cách thô sơ, dù có bãi
rác tập trung nhưng thông thường rác thải sinh hoạt vẫn được xử lý bằng cách đốt,
dễ gây ô nhiễm đất trồng trọt nếu nơi xử lý ở gần ruộng nương và còn ảnh hưởng
đến các vùng đất thấp hơn. Chính quyền địa phương chưa có quy hoạch xử lý rác
thải cho bản Lác và các bản hoạt động du lịch xung quanh khiến gây ra lo ngại về
mặt môi trường trong tương lai.
Bảng
4.7: Điểm bền vững và điểm đánh giá các tiêu chí về Môi trường
Tiêu chí |
Điểm bền vững |
Tiêu chí thành phần |
Điểm đánh giá |
Chỉ số/Thang đo |
Điểm đánh giá |
Môi trường |
58.25 |
Bảo vệ tài nguyên tự nhiên và môi trường |
48.86 |
Bảo vệ rừng |
72.07 |
Bảo vệ đất nông nghiệp |
58.97 |
||||
Ảnh hưởng của bê tông hóa đến cảnh quan và môi trường |
24.48 |
||||
Xử lý rác thải |
58.28 |
||||
Ý thức bảo vệ môi trường |
67.64 |
Tuyên truyền bảo vệ môi trường của chính quyền địa phương |
81.72 |
||
Ý thức của khách du lịch |
47.24 |
||||
Hành động của cộng đồng địa phương |
81.03 |
Nguồn:
Kết quả tính toán của tác giả
Vai trò của cộng đồng trong phát triển
du lịch đã trở thành một tiêu chuẩn được chấp nhận rộng rãi đối với mục tiêu bền
vững (Uzun, 2015; Lin & Lu, 2012), sự tham gia của cộng đồng địa phương quyết
định sự duy trì ổn định các hoạt động du lịch, nhất là với mô hình du lịch dựa
vào cộng đồng. Khía cạnh bền vững cuối cùng được đưa ra đánh giá nhằm vào năng
lực thực hiện các hoạt động du lịch của cộng đồng và sự hỗ trợ cộng đồng địa
phương từ phía chính quyền. Kết quả đánh giá cho thấy còn nhiều vấn đề cần phải
cải thiện để giúp cho mô hình bản Lác bền vững từ khía cạnh này. Trong 3 biến
thang đo của tiêu chí Tương tác giữa người
dân và khách du lịch thì 2 biến được đánh giá ở mức trung bình (40-60 điểm)
là Thái độ phản ứng khi gặp khách du lịch
và Khả năng sử dụng tiếng Anh, Giao lưu văn hóa là kém nhất với 37,59
điểm. Cụ thể cho tình trạng này, nhóm nghiên cứu đã phỏng vấn một số khách du lịch,
theo đánh giá của họ người dân bản Lác thường không chủ động trong việc tương
tác với khách du lịch và không thể hiện được sự niềm nở cần thiết. Theo quan
sát của tác giả, các quầy hàng lưu niệm, sản phẩm du lịch thường hay không có
người trông hàng vào khoảng thời gian 10h-13h, khoảng thời gian gia đình họ chuẩn
bị bữa trưa, rất bất tiện cho hoạt động thăm quan và nhu cầu mua đồ của khách.
Bên cạnh đó các sản phẩm được bày sẵn và thường thiếu sự tư vấn hay giải thích
của người bán hàng về ý nghĩa và giá trị của chúng làm cho khách du lịch khá
khó khăn khi lựa chọn. Một vấn đề khác về tương tác giữa người dân và khách du
lịch là tiếp cận các buổi giao lưu văn hóa chưa thực sự dễ dàng, các buổi văn
nghệ này chỉ biểu diễn khi có yêu cầu của khách, chi phí cho một buổi văn nghệ
khoảng 700 nghìn đồng/một buổi, không phải là vấn đề với các đoàn khách đông
người nhưng lại là trở ngại với đoàn du lịch số lượng nhỏ, trong khi ngày càng
nhiều khách du lịch phượt đi theo nhóm ít người ít có điều kiện giao lưu hơn.
Ngoài ra, khả năng sử dụng tiếng Anh của cộng đồng địa phương tại bản Lác khá hạn
chế khi mà đây là một điểm du lịch khá hấp dẫn du khách nước ngoài (40,34 điểm).
Bảng
4.8: Điểm bền vững và điểm đánh giá các tiêu chí về Cộng đồng &
Tiêu chí |
Điểm bền vững |
Tiêu chí thành phần |
Điểm đánh giá |
Thang đo |
Điểm đánh giá |
Cộng đồng và phát triển du lịch |
58.38 |
Tương tác giữa người dân và khách du lịch |
43.53 |
Thái độ phản ứng khi gặp khách du lịch |
56.90 |
Khả năng sử dụng tiếng Anh |
40.34 |
||||
Giao lưu văn hóa với khách du lịch |
37.59 |
||||
Hỗ trợ làm du lịch cho người dân địa phương |
49.00 |
Lợi ích nhận được từ các khóa học du lịch |
73.45 |
||
Hỗ trợ khác của nhà nước |
15.52 |
||||
Tiếp thu ý kiến người dân |
73.45 |
||||
Sức tải du lịch |
83.74 |
Sự đáp ứng nhà ở homestay khi quá đông khách du lịch |
82.41 |
||
Sự đáp ứng địa điểm tổ chức các hoạt động giải trí khi quá đông
khách du lịch |
85.86 |
Nguồn:
Kết quả tính toán của tác giả
Có thể nói các vấn về năng lực thực
hiện du lịch của cộng đồng địa phương đã được quan tâm một cách đúng mực. Nhiều
khóa học ngắn đào tạo về du lịch cộng đồng, du lịch homestay,… đã được mở để
trang bị kiến thức và kỹ năng nghiệp vụ cho người dân và được đón nhận. Theo
tìm hiểu, các lớp học được tổ chức nghiêm túc bởi cơ quan quản lý huyện Mai
Châu và tỉnh Hòa Bình, đảm bảo chất lượng với sự tham gia của giảng viên của một
số trường đại học, cấp chứng chỉ sau khi hoàn thành cho người học và thường
xuyên mở thêm các lớp mới cho những người chưa được tham gia. Người dân địa
phương đánh giá cao về lợi ích của các khóa học này đối với công việc của gia
đình họ với 73,45 điểm. Bên cạnh đó bản thường xuyên có các buổi họp chung giữa
các hộ gia đình do trưởng bản là người chủ trì, các buổi họp tiếp thu ý kiến
người dân của chính quyền địa phương và nhận được phản hồi tích cực (73,45 điểm
- Tốt). Ở khía cạnh này còn cho ta một tiêu chí thành phần được đánh giá với số
điểm cao nhất, đó là Sức tải du lịch với
83,74 điểm – rất tốt, thực tế khách du lịch đến thăm quan bản Lác ngày càng
đông nhưng khả năng phục vụ một lượng khách rất lớn vào ngày cuối tuần và các kỳ
nghỉ lễ vẫn được đảm bảo. Cuối cùng, nằm trong nhóm các tiêu chí về hỗ trợ làm
du lịch cho người dân đại phương là chỉ tiêu được đánh giá ở mức thấp nhất – Hỗ trợ khác của nhà nước chỉ đạt 15,54
điểm (rất kém). Hỗ trợ của nhà nước được hiểu là các hỗ trợ ngoài giáo dục du lịch
và tiếp thu xử lý ý kiến của cộng đồng địa phương, như hỗ trợ về vốn, nâng cấp
cơ sở hạ tầng, hỗ trợ tiếp thị du lịch,… Theo tìm hiểu của nhóm nghiên cứu,
lĩnh vực duy nhất nhận được sự hỗ trợ về vốn là nông nghiệp, thường là vay ưu
đãi, điều này khá khó hiểu khi du lịch vốn là ngành có tiềm năng phát triển và
đem lại lợi ích lớn cho địa phương lại không được quan tâm một cách phù hợp,
các hộ gia đình tại bản Lác tự bỏ vốn và tranh thủ sự giúp đỡ của làng xóm để
xây dựng, cải tạo các nhà ở homestay và trang thiết bị phục vụ du lịch. Chỉ có
một số hộ dân làm du lịch lâu năm nhiều kinh nghiệm
có khả năng kết nối với các công ty du lịch để tiếp thị và đón nhận khách du lịch,
rất nhiều hộ còn khó khăn trong vấn đề hợp tác làm ăn và chỉ trông chờ vào sự hấp
dẫn du lịch tại bản và giới thiệu của các du khách cho người quen. Thực tế cho
thấy, các gia đình làm du lịch tốt và giàu có nhất là những hộ có sự móc nối chặt
chẽ với các công ty du lịch.
Tóm tại, cách thức làm du lịch tại bản
Lác còn nhiều vấn đề thiếu chuyên nghiệp, cách làm việc của cộng đồng địa
phương còn tùy tiện và chưa được tổ chức một cách khoa học. Một phần do nhận thức
của người dân chưa đầy đủ và các kiến thức, kỹ năng du lịch chưa được đào tạo
bài bản, sự tham gia của nhà nước và doanh nghiệp còn hạn chế trong khi cộng đồng
địa phương chưa có được sự hỗ trợ phù hợp. Sự tham gia thụ động của chính quyền
địa phương không những không có kết quả tích cực mà còn có thể gây sự lo ngại
làm ảnh hưởng đến chính hoạt động du lịch hiện đang ổn định của các hộ dân. Hiện
nay du lịch Bản Lác còn phát triển mạnh mẽ là do nhận thức và tư duy kinh tế,
du lịch của chính người dân, do cơ cấu tự tổ chức và quản lý cộng đồng chặt chẽ
trong bản. Việc chưa thật sự có triển khai về quy hoạch du lịch khiến cho các vấn
đề tiêu cực diễn biến ngày càng xấu đi.
CHƯƠNG
5: ĐỀ XUẤT CẢI THIỆN TÍNH BỀN VỮNG CỦA MÔ HÌNH DU LỊCH TẠI BẢN LÁC
5.1. Giải pháp nâng cao tính bền vững
cho nhóm tiêu chí về Môi trường
Có
thể nói đánh giá khía cạnh môi trường chưa bền vững tại Bản Lác là một kết quả
khá bất ngờ do hầu hết cả người dân địa phương, khách du lịch và những người đứng
đầu cộng đồng đều có chung nhận định môi trường tại đây rất sạch sẽ, nhận thức
bảo vệ tài nguyên tự nhiên và môi trường của người dân là rất tốt. Nhưng với
các kết quả đã phân tích và thảo luận ở trên đã báo động cảnh quan và môi trường
ở Bản Lác sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực dù hiện tại chưa có những sự cố rõ ràng. Và
cần thiết phải có những hành động kịp thời hạn chế sự mai một về cảnh quan cũng
như những sự tiêu cực xảy ra đồng thời với yếu tố văn hóa, dưới đây là một số đề
xuất giải pháp cụ thể cho việc nâng cáo tính bền vững ở khía cạnh môi trường, cần
được tiến hành trong ngắn hạn và có khả năng tham gia của cộng đồng:
Thứ nhất,
cộng đồng dân bản và chính quyền địa phương cần phải thống kê ngay số lượng số
gia đình còn giữ lại được ao hồ gắn liền với kiến trúc nhà sàn, nghiêm cấm các
hành vi san lấp ao hồ để sử dụng cho các mục đích khác và bảo vệ cảnh quan truyền
thống này khỏi nguy cơ biến mất. Bên cạnh đó, phải giữ vệ sinh sạch sẽ cho các
không gian này để tránh gây mất vệ sinh, tách riêng khu vực nuôi nhốt gia súc
gia cầm và đảm bảo được sử dụng cho mục tiêu du lịch. Đây là điểm hấp dẫn du khách
đặc biệt từ những ngày đầu du lịch phát triển tại Bản Lác và cũng là một nét
văn hóa đặc trưng của cộng đồng Thái trắng. Các công trình bê tông phải được
quy định thiết kế phù hợp với kiến trúc nhà sàn truyền thống, các quy định này
có thể bao gồm: tỷ lệ chất liệu bê tông của công trình, kiểu dáng thiết kế, màu
sắc,… nên được xây dựng khéo léo để không làm ảnh hưởng tới kiểu cách đặc trưng
của nhà sàn. Ngoài ra chính quyền địa phương nên tạo ra một quy chuẩn trong xây
dựng và thiết kế về các đặc điểm của kiến trúc nhà sàn người Thái cho các nhà
sàn mới được xây dựng và hỗ trợ các hộ gia đình sửa sang giữ lại kiến trúc truyền
thống trong bản. Một vấn đề nữa phải được lưu tâm và thời gian xây dựng các
công trình bê tông hóa, không được diễn ra quá dài và phải đảm bảo không gây bủi
bẩn và làm mất mỹ quan điểm du lịch. Khôi phục và trồng mới các hàng cây xanh
và cây tự nhiên đã bị chặt phá từ trước để giúp bản lấy lại môi trường trong sạch
và tọa nên một vẻ đẹp xanh trong mắt du khách.
Thứ hai,
vấn đề ý thức khách du lịch không phải một sớm một chiều có thể giải quyết,
nhưng các biện pháp nhằm nâng cao nhận thức cho họ phải luôn được tiến hành
song song với kinh doanh du lịch. Quan trọng nhất là phải tích cực tuyên truyền
cho khách du lịch thấy được hành vi nhỏ có thể gây hậu quả lớn, vừa gìn giữ một
không gian du lịch xanh sạch đẹp, vừa cho thấy hình ảnh đẹp trong mắt du khách
nước ngoài. Chính quyền và cộng đồng địa phương có thể đặt các phông tuyên truyền
về ý thức bảo vệ môi trường ở các vị trí nhất định trong bản, thậm chí phải thể
hiện sự nhắc nhở một cách tinh tế qua mọi đồ vật và sản phẩm. Bên cạnh đó có thể
áp dụng tuyên truyền theo loa, nhắc nhở khách du lịch trong các buổi giao lưu
văn hóa, đốt lửa trại, thăm quan phong cảnh,… Chính quyền địa phương phải tổ chức
hoạt động quản lý, giám sát thường xuyên, nhắc nhở khi cần thiết và nên có chế
tài xử phạt các hành vi làm xấu môi trường, các hình thức xử phạt có thể là phạt
tiền, các cá nhân có hành vi quá đáng sẽ bị cấm thăm quan du lịch, thậm chí có
thể học tập cách xử phạt tại một số mô hình du lịch khác như phạt dọn vệ sinh.
Cuối cùng, cả cộng đồng cần tiếp tục duy trì thói quen gìn giữ nhà cửa và làng
bản sạch đẹp, các buổi dọn về sinh chung cần có sự tham gia của đông đảo người
dân địa phương, điều này sẽ tạo nên một vẻ đẹp khác cho bản và thậm chí khách
du lịch tham gia trực tiếp vào giúp đỡ người dân địa phương làm sạch làng bản
có thể là một trải nghiệm đáng nhớ với họ, giúp họ nâng cao ý thức của riêng
mình, các khách du lịch khác cũng sẽ ngại và hạn chế hơn các hành vi xấu đó.
Thứ ba, vấn
đề nên được quan tâm hơn cả là cấp bách phải có một hệ thống xử lý chất thải
chuyên nghiệp và bãi rác tập trung. Hiện tại bản Lác chưa có quy hoạch phát triển
các hệ thống này, chính quyền xã và trưởng bản nên kiến nghị và giám sát việc lập
kế hoạch này, trong khi đó trách nhiệm hoàn thành công việc này thuộc về UBND
huyện Mai Châu và tỉnh Hòa Bình, đặc biệt phải vận hành một cách hiệu quả và
tránh sự cố. Không chỉ áp dụng một hệ thống xử lý đảm bảo vệ sinh, các chuyên
gia cũng cần phải có sự tham gia tư vấn và thiết kế soa cho phù hợp với đặc điểm
địa hình và không làm ảnh hưởng đến cảnh quan tự nhiên, văn hóa ở Bản Lác.
Thứ tư,
khi khía cạnh kinh tế đã được đảm bảo bắt buộc các bên phải có đóng góp chung bằng
tiền cho bảo vệ môi trường, các khoản đóng góp này có thể dưới dạng phí xử lý
rác thải, vệ sinh đường xá, đóng góp xây dựng các công trình vệ sinh công cộng.
Bên cạnh đó, các hộ gia đình làm du lịch homestay phải dành kinh phí trang bị dụng
cụ vệ sinh như chổi, thùng rác, giấy vệ sinh… đầy đủ, đặc biệt là phải đầu tư
xây dựng cải tạo nhà vệ sinh hợp tiêu chuẩn.
Thứ năm, các
nhà khoa học, thanh tra, quản lý phải thường xuyên thực hiện đánh giá chất lượng vệ sinh môi trường cho Bản, đảm bảo vận
hành tốt hệ thống xử lý chất thải, các chỉ tiêu môi trường nằm ở mức cho phép
và khắc phục được các sự cố môi trường một cách kịp thời.
Thứ sáu, hiện nay tỉnh Hòa Bình đã có quy hoạch du lịch Mai Châu
trở thành điểm du lịch quốc gia, trong quy hoạch cần thể hiện nhận thức đúng mực
hơn về tác động của môi trường đối với tương lai, phải có sự tham gia tích cực
và phối hợp của cả chính quyền địa phương, doanh nghiệp du lịch và cộng đồng
trong vấn đề bảo vệ môi trường.
Cuối cùng,
trong tương lai khi hạ tầng cơ sở đổi mới và hiện đại, nên có hướng phát triển
du lịch dựa vào các nguồn năng lượng tái tạo, áp dụng công nghệ hiện đại giám
sát và quản lý môi trường.
5.2.
Đề
xuất cải thiện tính bền vững cho nhóm tiêu chí về Cộng đồng & Phát triển du
lịch
Các
giải pháp sau đây nhằm nâng cao sự chuyên nghiệp trong cách vận hành du lịch,
năng lực thực hiện các hoạt động du lịch của cộng đồng và một số vấn đề khác
trong sự tham gia của các bên vào du lịch cộng đồng tại Bản Lác:
Thứ nhất,
về thái độ tương tác giữa người dân và khách du lịch, tác phong chân chất và ngại
giao tiếp của một bộ phận cộng đồng khiến họ bị hiểu lầm là thiếu niềm nở với
khách du lịch. Người dân tộc Thái rất thật thà và hiền hậu, vì vậy một điểm tốt
ở du lịch Bản Lác là rất ít xảy ra hiện tượng ép giá và chèo kéo du khách, bên
cạnh đó lại là vấn đề về thái độ tương tác của một số người dân chưa chủ động.
Để khắc phục vấn đề này, tốt hơn hết nên nghiên cứu thêm và đưa vào giáo án giảng
dạy trong các kỳ tập huấn kinh doanh du lịch các kỹ năng về giao tiếp, ứng xử
cho người dân mà không làm thay đổi bản chất văn hóa người Thái tại đây. Các
khóa học này mới hướng dẫn một số nghiệp vụ và kỹ năng cơ bản như tạo menu thực
đơn song ngữ cho khách, hoạt động kinh doanh nhà ở homestay, tránh phản ứng gây
mâu thuẫn với khách… (theo kết quả phỏng vấn người dân địa phương). Cùng với đó
là tạo cho người dân một quy cách làm việc chuyên nghiệp, tránh các hiện tượng
bỏ trống cửa hàng như phân tích ở phần trước.
Thứ hai,
du lịch Bản Lác vốn là du lịch văn hóa, vì vậy cần phải tạo cơ hội dễ dàng để
khách du lịch được tham gia trải nghiệm các hoạt động văn hóa của người dân địa
phương, điển hình là các buổi giao lưu văn hóa văn nghệ. Bên cạnh các chương
trình được đặt lịch từ trước của các đoàn du khách, địa phương nên có những chương
trình giao lưu miễn phí và công khai trong phạm vi điểm du lịch tạo điều kiện
tha, gia cho các đoàn du lịch ít người. Ví dụ, vào các buổi thứ bảy và chủ nhật
hàng tuần khi khách tham quan đông đúc, địa phương có thể tổ chức một số điểm
chơi trò chơi dân gian, biểu diễn nghệ thuật đường phố hay lễ hội nhỏ mô phỏng
lễ hội truyền thống người Thái… các sự kiện này có thể tham khảo cách làm ở phố
đi bộ Hồ Gươm, Hà Nội đã và đang tạo nên điểm mới hấp dẫn khách du lịch.
Thứ ba,
về phương hướng thực hiện công tác đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao chất lượng nhân lực du lịch phải hướng đến 2 mục tiêu cơ bản là
giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, thái độ giao tiếp ứng xử với
các tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động du lịch cho đội ngũ cán bộ, công chức
và việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng kinh doanh cho lao động
du lịch trực tiếp và cộng đồng địa phương tại bản nhằm thúc đẩy tính chuyên
nghiệp đến từng người dân.
Thứ tư,
các chính sách đầu tư du lịch phải thật sự rõ ràng, không nên mở rộng cho phép
người ngoài bản tham gia hoạt động kinh doanh du lịch tại đây mà phải thực hiện
liên kết và hợp tác làm ăn giữa các hộ gia
đình làm du lịch và các doanh nghiệp lữ hành, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
này tiếp tục móc nối với các hộ chưa có nhiều sự hợp tác.
Thứ năm,
về công tác xúc tiến và quảng bá du lịch, công tác tổ chức các chương trình, sự
kiện du lịch trong và ngoài nước cần được đầu tư và chuẩn bị kỹ lưỡng từ nội
dung đến hình thức, theo hướng chuyên nghiệp, góp phần thúc đẩy phát triển du lịch,
tăng lượng khách đến bản. Du lịch Bản Lác hiện tại được biết đến qua kênh giới
thiệu lẫn nhau của du khách, công tác quảng bá hình ảnh chưa chuyên nghiệp và
không hấp dẫn người đọc, người xem.
Thứ sáu, cần
thiết phải có một ban quản lý du lịch hoạt động chuyên nghiệp, có đại diện của
các bên liên quan như chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng địa phương tham
gia giám sát và quản lý các hoạt động du lịch, du lịch Bản Lác quá phụ thuộc
vào sự tự giác và tự phát của người dân địa phương, vai trò của nhà nước và
chính quyền còn rất hạn chế.
Cuối cùng,
về sự tham gia của nhà nước trong mô hình du lịch cộng đồng, bên cạnh các hỗ trợ
về mặt tài chính, nhà nước nên có các hỗ trợ phi tài chính như hỗ trợ kỹ thuật,
cải tạo cơ sở hạ tầng, khuyến khích các nhà khoa học tham gia đánh giá về tính
bền vững của mô hình du lịch và phát hiện, dự báo các vấn đề khác trong tương
lai. Bên cạnh đó, quy hoạch phát triển vùng phải kịp thời và đảm bảo tránh nguy
hại cho các tài nguyên du lịch.
Trong
mục này, nhóm nghiên cứu xin đưa ra một số đề xuất khắc phục những điểm hạn chế
về các tiêu chí kinh tế và văn hóa – xã hội. Một vấn đề đáng lưu ý trong việc bảo
tồn đặc trưng văn hóa Thái tại Bản Lác là ngày càng ít người có khả năng hát
các bài hát truyền thống, hầu hết dân bản chỉ biết điệu múa xòe phổ biến. Bên cạnh
đó, việc người dân tộc tại đây không còn thường xuyên mặc các trang phục truyền
thống khiến khách du lịch ít thấy thích thú hơn. Vì vậy để đảm bảo gìn giữ được
các nét đẹp văn hóa đó, cá nhận có thẩm quyền và chính quyền địa phương cần phải
giải thích đúng mực và phối hợp với trưởng bản để xem xét đặt ra một số quy định
về thời gian bắt buộc mặc trang phục truyền thống, hay cải thiện chất liệu của
các trang phục này để thuận tiện hơn trong cách ăn mặc. Những người dân cao tuổi
và am hiểu văn hóa nên nhận được sự quan tâm và khuyến khích họ truyền dạy lại
các điệu múa, lời ca của dân tộc cho con cháu, địa phương có thể tổ chức các lớp
dạy nghệ thuật, dạy chữ Thái cho lớp trẻ trong bản. Việc tổ chức các lớp học
này miễn phí cũng sẽ là một cách cải thiện sự đóng góp kinh tế của địa phương
vào các hoạt động văn hóa.
Về
cải thiện hệ thống điện, theo quan sát cả bản và khu vực các bản xung quanh chỉ
có một trạm biến áp và hệ thống đường dây đã lâu năm, chính quyền địa phương
nên có phương án xử lý kỹ thuật kịp thời tránh tình trạng quá tải như nâng cấp
đường dây hay lắp đặt mới trạm biến áp.
Mặc
dù công tác an ninh trật tự của bản là rất tốt, hầu hết người dân đều cho rằng
bản tuyệt đối an toàn, nhờ có sự đoàn kết và niềm tin của cộng đồng, tuy nhiên
vẫn phải tránh trường hợp có các các nhân tổ chức chức có hành vi xấu lợi dụng
lòng tốt của bản làng để thực hiện các ý đồ phạm pháp của mình, người dân cũng
nên cảnh giác cao hơn và chức năng quản lý và giám sát an ninh trật tự sẽ thuộc
về ban quản lý và chính quyền.
Cuối
cùng, một vấn đề vô cùng quan trọng là phải có sự chia sẻ lợi ích và quan tâm đến
các bản làng xung quanh trong khu vực, theo điều tra du lịch tại khu vực do người
dân Bản Lác làm việc là chính nhưng các hoạt động tham quan khám phá diễn ra ở
cả các bản không làm du lịch, vì thế sự hợp tác với các bản xung quanh là cần
thiết và cũng phải đảm bảo lợi ích cho họ từ du lịch để tránh mâu thuẫn không
mong muốn, sau đó, nên khuyến khích các bản khác ở địa phương tham gia du lịch
để việc kinh doanh du lịch phát triển hơn và mở rộng thành một khu du lịch lớn.
CHƯƠNG
6: KẾT LUẬN, HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TRONG TƯƠNG LAI
6.1. Kết luận chung và đóng góp của
đề tài
Nghiên
cứu này thực hiện đánh giá phát triển du lịch bền vững của mô hình du lịch dựa
vào cộng đồng tại Bản Lác, xã Chiềng Châu, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình nhằm
phát hiện các các khía cạnh thiếu bền vững và đề xuất phương án cải thiện, kết
quả nghiên cứu đã đưa đến một số kết luận sau:
Thứ nhất, mô
hình du lịch cộng đồng tại Bản Lác là một mô hình thành công và có mức độ bền vững
tiềm năng nhưng chưa đáp ứng tốt tất cả các yếu tố bền vững, 2 trên 4 khía cạnh
bền vững được đánh giá chưa bền vững (Môi trường và Cộng đồng & Phát triển
du lịch) trong khi đó 2 khía cạnh còn lại (Kinh tế và Văn hóa – Xã hội) đạt mức
độ bền vững tiềm năng. Các phương án cải thiện tính bền vững của các khía cạnh
trên phải được quan tâm cả trong ngắn hạn và lâu dài.
Thứ hai, mặc
dù hai khía cạnh Kinh tế và Văn hóa – xã hội được đánh giá là có khả
năng bền vững trong tương lai nhưng điều cấp thiết vẫn phải cải thiện các yếu tố
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển như chính sách thuế phí, hệ thống cấp tải
điện và đóng góp kinh tế cho bảo tồn di sản nhân văn. Bên cạnh đó, các yếu tố
văn hóa nguyên bản có nguy cơ mai một ngày càng nhiều là khiến cho các khía cạnh
này có thể trở nên thiếu bền vững về lâu dài.
Thứ ba, sự
thành công và duy trì tốt của mô hình du lịch Bản Lác phụ thuộc chủ yếu vào cộng
đồng địa phương, người dân tại đây có nhận thức và kinh nghiệm làm du lịch tốt
mặc dù chỉ bắt đầu bằng sự tự phát các hoạt động du lịch. Một nguyên tắc quan
trọng của du lịch cộng đồng là phải đảm bảo sự tham gia tích cực của các bên
liên quan. Tuy nhiên sự tham gia này là vô cùng hạn chế, hỗ trợ của nhà nước yếu
cả về vấn đề tài chính và phi tài chính, liên kết hợp tác với doanh nghiệp lữ
hành chuyên nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng phát triển và sức hấp dẫn của
điểm du lịch này. Ngoài ra công tác xúc tiến, quảng bá du lịch còn nhiều thiếu
sót, quy hoạch du lịch được thực hiện muộn và chưa được triển khai.
Các đóng góp của nghiên cứu này bao
gồm:
Thứ nhất,
đề tài áp dụng một bộ công cụ tích hợp và phương pháp mới trong đánh giá định
lượng phát triển du lịch bền vững dựa trên tổng quan tình hình nghiên cứu của
các tác giả nước ngoài, cách thức đánh giá được chọn lọc kỹ, đơn giản hóa những
vẫn đảm bảo độ tin cậy cao nhờ việc xác định được các công đoạn chung và lựa chọn
các công cụ phù hợp từ các tác giả.
Thứ hai,
nghiên cứu này đã xây dựng một thang đo lường chủ quan dựa trên tổng hợp có chọn
lọc và phát triển các tiêu chí phù hợp với tình huống nghiên cứu, quá trình
đánh giá được thực hiện từ phương diện người dân địa phương, đem đến góc nhìn mới
về vấn đề phát triển du lịch bền vững. Thang đo này có thể được tiếp tục sử dụng
trong tương lai để xem xét sự thay đổi trong tính bền vững của các tiêu chí.
Thứ ba, đề
tài kết luận được một cách có cơ sở về tính bền vững của mô hình du lịch Bản
Lác qua điểm bền vững và các mốc đánh giá, phát hiện được các khía cạnh thiếu bền
vững ở mô hình vốn được coi là thành công và ít khuyết điểm này. Bên cạnh đó,
nhóm nghiên cứu đã đưa ra những đề xuất cụ thể và thiết thực dựa trên chính kết
quả nghiên cứu được thảo luận với hy vọng có những đóng góp thực tế cho Bản Lác
và cộng đồng dân tộc tại đây.
6.2.
Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo
Bên
cạnh những đóng góp thiết thực, nhóm nghiên cứu đã nhìn nhận khách quan và cho
rằng đề tài này vẫn còn có một số hạn chế như sau:
Thang
đo tính bền vững là thang đo lường chủ quan dựa trên cảm nhận cá nhân và phụ
thuộc vào thái độ trả lời của người được hỏi, điều này ảnh hưởng đến kết quả khảo
sát và kết quả đánh giá sự bền vững. Để cải thiện vấn đề này, các nghiên cứu
trong tương lai có thể kết hợp sử dụng lý thuyết mờ (Fuzzy Theory) với phương
pháp AHP hay ANP, tạo nên các mô hình cải thiện AHP và ANP gốc nhằm đo lường
các biến số mập mờ, không rõ ràng và dựa trên cảm tính, cách thức đánh giá này
đã được áp dụng trong nghiên cứu của Lin và Lu (2012).
Về
quá trình thực hiện điều tra khảo sát, đề tài này mới tập trung nghiên cứu tại
trung tâm du lịch là khu vực Bản Lác 1 vì giới hạn về nguồn lực. Các nghiên cứu
cần mở rộng địa bàn điều tra đê tăng độ xác thực cho việc đánh giá, thậm chí là
thực hiện đánh giá trên cả khu vực du lịch Pom Coọng bao gồm Bản Lác và các bản
xung quanh do các tác động lan tỏa của phát triển du lịch. Trong tương lai,
nhóm tác giả hy vọng các đề tài nghiên cứu tiếp theo sẽ khắc phục được những hạn
chế này, có thêm nhiều sự quan tâm và theo dõi của các nhà khoa học về vấn đề
phát triển du lịch bền vững tại Bản Lác.
Tài liệu luận văn, bài báo khoa học:
1.
Azizi, H., Biglari, M., & Joudi, P.
(2011). Assessment the feasibility of sustainable tourism in urban environments
employing the cumulative linear model. Procedia Engineering, 24-33.
2. Blancas, F. J.,
Gonzalez, M., Lozano-Oyola, M., & Perez, F. (2009). The assessment of
sustainable tourism: Application to Spanish coastal destinations. Ecological
Indicators, 484–492.
3. D.
4. Dung, T. T. (2012). Tổng quan về ứng dụng
phương pháp phân tích thứ bậc trong quản lý chuỗi cung ứng. Tạp chí Khoa học,
180-189.
5. García-Melón, M.,
Gómez-Navarro, T., & Acuña-Dutra, S. (2012). A combined ANP-delphi approach
to evaluate sustainable tourism. Environmental Impact Assessment Review,
41-50.
6. Hải, L. T. (n.d.). Các chỉ số cho phát triển
bền vững: Lấy ví dụ nghiên cứu điểm tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo
quốc tế Việt Nam học lần thứ ba.
7. Hoàng, Đ. K., Phương, T. N., & Giang, T.
T. (n.d.). Quá trình phân tích thứ bậc mờ (FAHP) và ứng dụng trong lĩnh vực GIS.
8. Hoàng, N. V. (2012). Đánh giá sức tải trong
hoạt động du lịch – Sự cần thiết cho quy hoạch và quản lý phát triển du lịch biển.
Tạp chí Khoa học ĐHSP TPHCM 2012, 76-83.
9. Hòe , N. Đ., & Hiếu, V. V. (2007). Tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu môi trường
và phát triển. NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
10. Huang, Y., & R.
Coelho, V. (2016). Sustainability performance assessment focusing on coral reef
protection by the tourism industry in the Coral Triangle region. Tourism
Management, 510-527.
11. Huiqin, L., &
Linchun, H. (2011). Evaluation on Sustainable Development of Scenic Zone Based
on Tourism Ecological Footprint: Case Study of
12. Indicators for
Sustainable Development in the Quang
13. Uzun, F. V. (2015).
Evaluation of the Sustainability of Tourism in
14. Ko, T. G. (2003). Development of a tourism
sustainability assessment procedure: a conceptual approach. Tourism
Management, 431–445.
15. Lin, L.-Z., &
Lu, C.-F. (2012). Fuzzy Group Decision-Making in the Measurement of Ecotourism
Sustainability Potential. Springer Science, 1051–1079.
16. Lợi, N. T. (2012). Giáo
trình Kinh tế phát triển. Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân.
17. Lozano-Oyola, M.,
Blancas, F. J., González, M., & Caballero, R. (2012). Sustainable tourism
indicators as planning tools in cultural destinations. Ecological Indicators,
659–675.
18. Nhung, Đ. T. (2015). Phát triển du lịch theo
hướng bền vững tại tỉnh Ninh Bình.
19. Prescott-Allen, R.
(1997). Barometer of Sustainability: Measuring and communicating wellbeing
and. IUCN.
20. Torres-Delgado, A., & Saarinen, J.
(2013). Using indicators to assess sustainable tourism development: a review. Tourism
Geographies, 31-47.
21. Trave, C., Brunnschweiler, J., Sheaves, M.,
Diedrich, A., & Barnett, A. (2016). Are we killing them with kindness?
Evaluation of sustainable marine wildlife tourism. Biological Conservation,
211-222.
22. Tsaur, S.-H., Lin, Y.-C., & Lin, J.-H.
(2005). Evaluating ecotourism sustainability from the integrated perspective of
resource, community and tourism. Tourism Management, 640–653.
23. Văn, T. C., & Sơn, N. T. (2015). Xây dựng
phương pháp tính trọng số để xác định chỉ số dễ bị tổn thương lũ lụt lưu vực
sông Vu Gia - Thu Bồn. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Tự nhiên và Công
nghệ, 93-102.
24. Wang, Z.-X., &
Pei, L. (2014). A systems thinking-based grey model for sustainability
evaluation of urban tourism. Kybernetes, 462-479.
25. Yến, N. T. (n.d.). Du lịch cộng đồng.
Nhà xuất bản Giáo dục.
26. Hạnh, T. N. (2016). Sự tham gia của cộng đồng địa
phương trong phát triển du lịch miền núi: Nghiên cứu điển hình tại Sa Pa, Lào
Cai.
27. Saaty, T.
(1980) The analytic hierarchy process. New York: McGraw-hill.
Tài
liệu từ Internet:
1. Du lịch ở Việt Nam tác động
đến kinh tế năm 2015
http://www.baodulich.net.vn/Du-lich-o-Viet-Nam-tac-dong-den-kinh-te-nam-2015-02-8202.html
2. Chiến lược phát triển du lịch Việt
http://vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/9133
3. Du lịch cộng đồng – loại hình du lịch hấp dẫn tại vùng
núi phía Bắc
http://www.vietnamtourism.com/index.php/news/items/7136
4. Bản Lác Mai Châu - Hòa Bình
http://www.vamvo.com/BanLacMaiChauHoaBinh.aspx
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét