Những ý tưởng hiện tại về phát triển bền vững có thể bắt nguồn từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Phần sau đây sẽ cung cấp một phác thảo lịch sử ngắn gọn để tạo bối cảnh cho các quan điểm và khái niệm vẫn đang phát triển về phát triển bền vững.
Thường được nhắc đến là các phong trào bảo tồn và môi trường phương Tây, các tổ chức và hội nghị quốc tế như Hội nghị Stockholm của Liên hợp quốc năm 1972 về Môi trường con người và Chiến lược bảo tồn thế giới năm 1980. Ngoài ra, cũng nên đề cập đến những ấn phẩm có ảnh hưởng lớn như Silent Spring (1962) của Carson và Tragedy of the Commons (1968) của Hardin. Bằng cách nhấn mạnh mối quan hệ giữa con người và việc sử dụng thiên nhiên của chúng ta, các phong trào, tổ chức và ấn phẩm này được cho là đã tạo dựng thành công mối liên hệ giữa môi trường và phát triển, vốn là trọng tâm của các quan niệm đương đại về phát triển bền vững. Trong thời đại công nghiệp hóa ở châu Âu và Mỹ, loài người đã thể hiện khả năng chinh phục và khai thác thiên nhiên. Trong một phân tích về chủ nghĩa môi trường của Hoa Kỳ, Rothman (1998: 34) mô tả việc “thuần hóa các dòng sông ở Hoa Kỳ vừa là thể thao vừa là sứ mệnh”. Hành vi như vậy bắt nguồn từ niềm tin chưa từng có của thời hiện đại vào tính hợp lý của con người, như đã thấy trong các mô hình tăng trưởng kinh tế (Rostow, 1952) và chương trình nghị sự chính trị sau Thế chiến thứ hai. Bài phát biểu nhậm chức của Tổng thống Truman trước Quốc hội Hoa Kỳ năm 1949 mang tính minh họa.
Với các vấn đề kém phát triển, xóa đói giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế chi phối chương trình nghị sự quốc tế của các quốc gia công nghiệp hóa trong những năm 1950 và 1960, các thực tiễn phát triển trực tiếp và kỷ luật hơn đã được thể chế hóa. Lấy ví dụ từ Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và các cơ quan viện trợ song phương, các hoạt động thể chế được bổ sung bằng sức mạnh của kiến thức. Các lý thuyết phát triển mới về hiện đại hóa và kém phát triển đã được đưa ra cùng với một hình ảnh địa chính trị mới. Theo đó, thế giới được sắp xếp gọn gàng dưới các dạng đối lập nhị phân, đó là Thế giới thứ nhất và Thế giới thứ ba, trung tâm và ngoại vi, Bắc và Nam, các nước phát triển và kém phát triển. Tóm lại, lý thuyết hiện đại hóa hình dung sự phát triển như một phong trào tiến bộ hướng tới các hình thức phức tạp được thể chế hóa hơn của xã hội ‘hiện đại’, có thể được tạo điều kiện thuận lợi bằng một loạt các can thiệp kinh tế và công nghệ. Người ta đã tuyên bố rằng những lợi ích từ đây cuối cùng sẽ 'nhỏ giọt' qua tầng lớp trung lưu đến quần chúng kém phát triển.
Rất hoài nghi về lý thuyết hiện đại hóa và sự thâm nhập của chủ nghĩa tư bản vào Thế giới thứ ba, các lý thuyết về sự phụ thuộc và chủ nghĩa đế quốc mới đã phát triển trong những năm 1960 và 1970, mang lại những thay đổi trong thực tiễn phát triển kinh tế xã hội. Các nhà lý thuyết về sự phụ thuộc, trong đó Frank (1967) đã trở thành một ví dụ được công nhận rộng rãi, cho rằng phát triển là một quá trình không bình đẳng mà qua đó các quốc gia giàu có của Thế giới thứ nhất, được gắn nhãn là 'trung tâm' hoặc 'lõi lõi', trở nên giàu có hơn và các 'vùng ngoại vi' nghèo của Thế giới thứ ba thậm chí còn nghèo hơn. Cho rằng khuôn khổ khái niệm của chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa tư bản là lý thuyết bóc lột, phụ thuộc coi sự kém phát triển được gắn vào các cấu trúc chính trị cụ thể. Nó chỉ ra bản chất bành trướng vốn có của chủ nghĩa tư bản và nhu cầu liên tục về thị trường mới cũng như tăng cường tích lũy vốn. Các quá trình bóc lột cố thủ trong việc cung cấp nguyên liệu thô liên tục và các mối quan hệ thương mại không bình đẳng. Điều này được minh họa rõ ràng bằng cách tiếp cận thống trị đối với du lịch trong thời kỳ hậu Thế chiến thứ hai, trong đó du lịch thường được coi là liều thuốc chữa bách bệnh kinh tế sẽ dẫn đến hiện đại hóa các khu vực ngoại vi, kém phát triển vì ngoại hối sẽ lọc qua nền kinh tế và nâng cao tiêu chuẩn của sinh hoạt, giáo dục, y tế, v.v. Các tác động tiêu cực tiềm tàng phần lớn không bị nghi ngờ vì 'ngành công nghiệp không có ống khói' có khả năng tái sản xuất cao. Nói chung, chính quyền địa phương yêu cầu đầu tư ban đầu rất ít, do bị thu hút bởi tiềm năng tăng trưởng hấp dẫn, đã cung cấp các ưu đãi sinh lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài và các tập đoàn đa quốc gia để thiết lập hoạt động tại điểm đến của họ (Poon, 1993; Patullo, 1996). Thật không may, chúng đã trở thành những tập quán cố thủ vẫn được sử dụng ở những nơi ngây thơ và thiếu hiểu biết để đáp ứng các chương trình nghị sự riêng tư.
Các nhà nghiên cứu du lịch như Smith (1977), Cohen (1978), de Kadt (1979) và Britton (1982) trong các nghiên cứu sâu rộng của họ đã lập luận rằng du lịch, thay vì mang lại lợi ích cho các điểm đến ngoại vi, trong nhiều trường hợp đã dẫn đến các hình thức phụ thuộc và tích lũy mới. -turation. Vẽ ra sự tương đồng giữa dịch vụ và nô lệ trong bối cảnh thuộc địa mới, về cơ bản giá trị kinh tế của du lịch đã bị đặt câu hỏi. Frank và các nhà lý thuyết về sự phụ thuộc khác (Emmanuel, 1972; Wallerstein, 1974; Amin, 1976) lập luận rằng các nước ngoại vi không thiết lập được cơ sở sản xuất và quan hệ thị trường của riêng mình như một lợi thế.
Hồ Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét