KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC SỰ KIỆN
Sự kiện tiệc tất niên năm
Tổ chức sự kiện là một thuật ngữ, có rất nhiều cách hiểu khác
nhau về thuật ngữ này. Trước tiên, chúng ta sẽ tìm hiểu ý
nghĩa của từ sự kiện theo cách
tiếp cận liên quan đến dịch vụ tổ chức sự kiện.
Theo từ điển tiếng Việt: Sự kiện đó là sự việc
có ý nghĩa quan trọng đang xảy ra, có ý nghĩa với đời sống xã hội.
Theo nghĩa phổ biến trong đời sống xã hội, thì
sự kiện là một hiện tượng, hoặc một sự cố, biến cố mang tính chất
bất thường xuất hiện. Ví dụ khi nói đến các sự kiện kinh tế tiêu biểu của
Việt Nam trong năm người ta có thể đề cập đến:
Việc tăng giá xăng dầu, khủng hoảng kinh tế, giảm giá chứng khoán…
Trong một số lĩnh vực khác sự kiện còn có
nghĩa hoàn toàn khác hẳn, ví dụ trong thống kê học mỗi trường hợp
xuất hiện các biến cố được xem là một sự kiện.
Trong lĩnh vực tổ chức sự kiện hiện
nay ở Việt Nam người ta thường
quan niệm: sự kiện đó là các hoạt động diễn ra trong các lĩnh vực như thể thao, thương mại, giải trí, lễ hội, hội
thảo, hội nghị... Tuy nhiên, việc quan niệm hoạt động nào là “sự
kiện” còn có nhiều cách hiểu khác nhau:
- Có người hiểu sự kiện theo
nghĩa chỉ có những hoạt động mang tính xã hội cao, với quy mô lớn, có những ý
nghĩa nhất định trong đời sống kinh tế xã hội (cả tỉnh cả nước, được các phương
tiện truyền thông quan tâm và đưa tin) mới được xem là sự kiện. Ví dụ các sự
kiện như: hội nghị các nước nói tiếng Pháp, SEGAMES 23, cuộc thi hoa hậu toàn quốc…
- Trong khi đó, có người lại hiểu
“sự kiện” theo nghĩa gần với “sự việc” có nghĩa ngoài những sự kiện đương
nhiên như cách hiểu nói trên, nó còn bao hàm cả những hoạt động thường mang ý
nghĩa cá nhân, gia đình, hoặc cộng đồng hẹp trong đời sống xã hội thường ngày
như: tang ma, đám cưới, sinh nhật, tiệc mời…
Dưới đây, là
đoạn trích của một bài về tổ chức sự kiện ở một diễn đàn kinh doanh trên
Internet nói về nghề tổ chức sự kiện để biết thêm một cách hiểu khác về
“sự kiện”.
- Với cách hiểu như trích
dẫn nói trên, thì “sự kiện” chủ yếu là các hoạt động liên quan đến hoạt động
thương mại, marketing của các doanh nghiệp như: hội thảo, hội nghị, khai
trương, giới thiệu sản phẩm, hội chợ, triển lãm… Ngay cả một số công ty có
dịch vụ tổ chức sự kiện hiện nay ở Việt Nam,
trong phần giới thiệu các sản phẩm về “tổ chức sự kiện” của mình cũng chỉ tập
trung trong những nội dung này mà ít quan tâm đề cập đến các lĩnh vực xã hội và
đời sống thường ngày khác.
Trong ba cách hiểu nói trên, “sự kiện” mới tiếp
cận ở một số lĩnh vực, trong một phạm vi nhất định. Với sự phát
triển của nghề “tổ chức sự kiện” nếu chỉ tiếp cận theo một trong ba
hướng trên sẽ không đủ.
Theo chúng tôi, cách tiếp cận về “sự kiện”
trong lĩnh vực này cần căn cứ vào những đặc trưng về mô tả của
nghề, các hoạt động cơ bản của nghề tổ chức sự kiện đã được thừa
nhận và mang tính phổ biến trên thế giới. Với quan điểm này, nên hiểu “sự kiện” dựa trên
nghĩa “tổ chức sự kiện” tương ứng với event management - trong tiếng
Anh. Cách hiểu này là hợp lý, vì khi nghiên cứu thuật ngữ này từ
các ngôn ngữ phổ biến khác như tiếng Pháp, Đức, Italia, Hà Lan… đều
mượn từ gốc event management (trừ tiếng Tây Ban Nha là gestión de eventos). Ở các nước phát
triển lĩnh vực này đã trở thành một nghề, một ngành công nghiệp
dịch vụ đặc thù, họ đã có hệ thống lý luận về nghề nghiệp tương
đối đầy đủ và chặt chẽ.
Theo tiếng Anh, sự kiện (event) bao hàm các lĩnh vực khá rộng như:
+ Bussiness event: Các sự kiện liên quan đến kinh doanh
+ Corporate events: Các sự kiện liên quan đến doanh nghiệp, ví dụ:
lễ kỷ niệm ngày thành lập công ty, hội nghị khách hàng…
+ Fundraising events: Sự kiện nhằm mục đích gây quỹ
+ Exhibitions: Triển lãm
+ Trade fairs: Hội chợ thương mại
+ Entertainment events: Sự kiện mang tính chất giải trí
+ Concerts/live performances: Hoà nhạc, biểu diễn trực tiếp
+ Festive events: Lễ hội, liên hoan
+ Government events: Sự kiện của các cơ quan nhà nước
+ Meetings: Họp hành, gặp giao lưu
+ Seminars: Hội thảo chuyên đề
+ Workshops: Bán hàng
+ Conferences: Hội thảo
+ Conventions: Hội nghị
+ Social and cultural events: Sự kiện về văn hoá, xã hội
+ Sporting events: Sự kiện trong lĩnh vực thể thao
+ Marketing events: Sự kiện liên quan tới marketing
+ Promotional events: Sự kiện kết hợp khuyến mãi, xúc tiến thương mại
+ Brand and product launches: Sự kiện liên quan đến thương hiệu, sản
phẩm…
Như vậy, khái
quát có thể chỉ ra khái niệm về sự kiện (trong lĩnh vực tổ chức
sự kiện) như sau: Sự kiện đó là các
hoạt động xã hội trong lĩnh vực thương mại, kinh doanh, giải trí, thể thao,
hội thảo, hội nghị, giao tiếp xã hội, các trò chơi cộng đồng, và các hoạt
động khác liên quan đến lễ hội, văn hóa, phong tục- tập quán…
Như vậy sự kiện cần được hiểu:
- Bao gồm tất cả các hoạt
động như đã đề cập ở trên.
- Không giới hạn về phạm vi
không gian, thời gian cũng như lĩnh vực
hoạt
động.
- Nó có nghĩa tương đương với ý nghĩa của từ sự kiện (event) trong nghề
tổ chức sự kiện (event management) của
tiếng Anh.
Việc nghiên cứu các nội dung tiếp theo trong tài liệu này dựa
trên cách hiểu về sự kiện như đã đề cập ở trên.
1.1.
Khái niệm về tổ chức sự kiện
Theo quan điểm về hoạt động tổ chức sự kiện (event management) là
các hoạt động liên quan đến việc thiết kế, tổ chức thực hiện sự
kiện.
Theo quan điểm kinh doanh tổ chức sự kiện bao gồm
một số hoặc toàn bộ các hoạt động từ việc thiết kế (design), triển
khai (execusion) đến kiểm soát (control) các hoạt động của sự kiện
nhằm đạt được các mục tiêu nhất định mà sự kiện đã đề ra.
Qua nghiên cứu hoạt động tổ chức sự kiện hiện
nay ở Việt Nam, cũng thấy rằng tổ chức sự kiện cũng bao gồm các hoạt động như nghiên cứu sự kiện;
lập kế hoạch, chương trình cho sự kiện; điều hành các diễnbiến của sự kiện; kết thúc sự kiện…
Từ những cách tiếp cận đã đề cập nêu trên, có thể
khái quát: Tổ chức sự kiện là một quá
trình bao gồm một số hoặc toàn bộ các công việc: nghiên cứu các yếu tố ảnh
hưởng; lập chương trình, kế hoạch; chuẩn bị các yếu tố cần thiết; và tổ chức
tiến hành diễn biến của sự kiện trong một thời gian và không gian cụ thể để
truyền đạt những thông điệp nhất định đến những người tham gia sự kiện và xã
hội; nhằm đáp ứng các mục đích khác nhau của các chủ thể tham gia vào sự kiện.
1.1.2. Các hoạt động tác nghiệp
cơ bản của tổ chức sự kiện
Các hoạt động tác nghiệp cơ bản, các công việc trong tổ chức
sự kiện có thể đề cập một cách cụ thể hơn, bao gồm:
1. Nghiên cứu các yếu tố
ảnh hưởng, liên quan đến sự kiện;
2. Hình thành chủ đề, lập
chương trình và kế hoạch tổng thể cho sự kiện;
3. Chuẩn bị tổ chức sự
kiện;
4. Tổ chức đón tiếp và khai
mạc sự kiện;
5. Tổ chức điều hành các
diễn biến chính của sự kiện;
6. Tổ chức phục vụ ăn uống
trong sự kiện;
7. Tổ chức phục vụ lưu trú,
vận chuyển trong sự kiện;
8. Tổ chức thực hiện các
hoạt động phụ trợ trong sự kiện;
9. Kết thúc sự kiện và
giải quyết các công việc sau sự kiện;
10. Xúc tiến và quảng bá sự kiện;
11. Quan hệ với các nhà cung
cấp dịch vụ bổ trợ sự kiện;
12. Quản trị tài chính trong
tổ chức sự kiện;
13. Dự phòng và giải quyết
các sự cố trong tổ chức sự kiện;
14. Chăm sóc khách hàng;
Các hoạt động tác nghiệp cơ bản nói trên vừa
đan xen vừa nối tiếp nhau trong quá trình tổ chức một sự kiện cụ
thể. Theo dòng chảy thời gian có thể thấy: Các hoạt động như: nghiên
cứu các yếu tố ảnh hưởng, liên quan đến sự kiện; hình thành chủ đề,
lập chương trình và kế hoạch tổng thể cho sự kiện; chuẩn bị tổ
chức sự kiện; xúc tiến và quảng bá sự kiện; thuộc giai đoạn trước
khi diễn ra sự kiện. Giai đoạn thực hiện sự kiện bao gồm các hoạt
động: tổ chức đón tiếp và khai mạc sự kiện; tổ chức điều hành các
diễn biến chính của sự kiện; tổ chức phục vụ ăn uống trong sự
kiện; tổ chức thực hiện các hoạt động phụ trợ trong sự kiện; Giai đoạn
giai đoạn cuối bao gồm các hoạt động kết thúc sự kiện và giải
quyết các công việc sau sự kiện. Các công việc khác như: quan hệ với
các nhà cung cấp dịch vụ bổ trợ sự kiện; quản trị tài chính trong
tổ chức sự kiện; dự phòng và giải quyết các sự cố trong tổ chức
sự kiện; chăm sóc khách hàng; đảm bảo vệ sinh, an toàn, và an ninh trong quá
trình tổ chức sự kiện… đan xen liên quan đến tất cả các giai đoạn nói trên.
Cần lưu ý, việc phân chia các công việc như trên
chỉ mang tính tương đối, mặt khác trong mỗi công việc còn chứa đựng
nhiều công việc nhỏ, công việc chi tiết khác.
1.1.3.
Các
thành phần tham gia trong sự kiện
Một sự kiện diễn ra luôn có mặt của khách mời, nhà đầu tư sự
kiện, nhà tổ chức sự kiện, giới truyền thông và cộng đồng dân cư nơi
diễn ra sự kiện. Tuy nhiên với các thành phần như trên chỉ mới xem
xét ở phần diễn biến của sự kiện (phần nổi); để tiến hành một sự
kiện còn có các thành phần khác như các nhà cung ứng về địa điểm
tổ chức sự kiện, cung ứng các dịch vụ vận chuyển, lưu trú, ăn uống… Vì
vậy trong quá trình nghiên cứu về tổ chức sự kiện cần thống nhất cách
hiểu về các thành phần này.
Các thành phần tham gia sự kiện: Là những tổ chức, doanh
nghiệp hoặc cá nhân trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào một hoặc nhiều công
việc, hoạt động, diễn biến của sự kiện. Người tham gia sự kiện bao gồm các nhóm
chính:
- Nhà đầu tư sự kiện (bao gồm
cả nhà tài trợ sự kiện);
- Nhà tổ chức sự kiện (có
nghĩa tương đương với doanh nghiệp tổ chức
sự
kiện);
- Nhà cung ứng dịch vụ bổ trợ tổ chức sự kiện: cung cấp dịch vụ, hàng
hóa cho sự kiện do nhà tổ chức sự kiện thuê;
-
Khách mời (tham gia sự kiện);
- Khách vãng lai tham dự sự
kiện;
- Chính quyền và cư dân nơi
diễn ra sự kiện.
Chú ý: Việc phân chia nói trên chỉ mang tính chất
tương đối trong một số trường hợp nhà đầu tư sự kiện cũng có thể chính là nhà
tổ chức sự kiện (tự tổ chức). Một số sự kiện không có khách vãng lai tham dự sự
kiện mà chỉ đơn thuần là khách mời, một số sự kiện ảnh hưởng và sự liên quan
đến chính quyền và cư dân nơi diễn ra sự kiện không đáng kể.
Nhà đầu tư sự kiện (nhà thuê tổ chức sự kiện/ chủ sở hữu
sự kiện): là các chủ thể chính của sự kiện, là các tổ chức doanh nghiệp hoặc cá
nhân bỏ kinh phí để thực hiện hoặc thuê nhà tổ chức sự kiện thực
hiện sự kiện và chịu trách nhiệm chủ yếu đối với các yếu tố có liên
quan đến sự kiện, nhằm mang lại những lợi ích khác nhau cho tổ chức của mình
và cho xã hội.
Nhà tài trợ sự kiện: Là các tổ chức, doanh
nghiệp hoặc cá nhân tài trợ cho sự kiện một phần về kinh phí, cơ sở
vật chất kỹ thuật, nhân lực…để góp phần vào sự thành công của sự
kiện, nhằm mang lại những lợi ích cho mình và cho xã hội. nhà tàitrợ sự kiện sẽ có được những quyền hạn nhất định trong việc chi
phối một số nội dung, hoạt động cũng như mục đích của sự kiện; song
song với nó họ cũng sẽ phải chịu một số trách nhiệm nhất định
(đối với các vấn đề có liên quan với họ) trong sự kiện.
Cần lưu ý:
- Nhà đầu tư sự kiện nếu
bỏ kinh phí và tự mình tổ chức sự kiện họ sẽ đóng cả vai trò là
nhà tổ chức sự kiện.
- Trong một sự kiện có thể vừa
có nhà đầu tư sự kiện vừa có thể có một hay nhiều nhà tài trợ cho
sự kiện.
- Trường
hợp có nhiều
nhà tài trợ sự kiện, người ta thường chỉ ra nhà tài trợ chính (tài
trợ chính thức); nhà đồng tài trợ…
- Trong tài liệu này, để thuận tiện cho việc trình
bày chúng tôi xin phép được gọi nhà tài trợ sự kiện vào nhóm các
nhà đầu tư sự kiện.
Nhà tổ chức sự kiện (bên được thuê tổ chức sự kiện): là
những tổ chức, doanh nghiệp, những người được nhà đầu tư sự kiện thuê và được
ủy quyền thực hiện quá trình tổ chức sự kiện có những ràng buộc, quyền lợi và
nghĩa vụ nhất định trong quá trình tổ chức sự kiện. Cùng với nhà đầu tư sự
kiện nhà tổ chức sự kiện phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về
các vấn đề có liên quan đến sự kiện.
Nhà tổ chức sự kiện ngoài việc chịu trách nhiệm
chuẩn bị, tiến hành và kết thúc các nội dung của sự kiện còn đóng
vai trò trung gian giữa các nhà cung ứng dịch vụ với khách hàng của
mình (xem sơ đồ 1.1)
Sơ đồ 1.1. Vai
trò trung gian của nhà tổ chức sự kiện
Nhà cung ứng các dịch vụ bổ trợ |
Nhà tổ chức sự kiện |
Khách hàng của nhà tổ chức sự kiện |
||
Khách hàng của nhà tổ chức sự kiện Khách hàng là đối tượng mà
nhà tổ chức sự kiện phục vụ và sẽ được trả công cho quá trình phục vụ
của mình.
Tùy theo hình thức tổ chức sự kiện mà
khách hàng của sự kiện có thể khác nhau. Ví dụ: một công ty bỏ tiền thuê một cuộc triển lãm
hàng hóa thì khách hàng là nhà đầu tư sự kiện. Trong trường hợp nhà tổ chức sự kiện
tự đứng ra tổ chức một sự kiện nào đó để lấy thu bù chi (ví dụ
một cuộc biểu diễn nghệ thuật), khách hàng chính là các nhà tài
trợ cho sự kiện và khán giả (khách mời) tham gia sự kiện.
Nhà cung ứng dịch vụ bổ trợ tổ chức sự kiện: là những tổ chức, doanh
nghiệp, cung ứng một hay một số các dịch vụ, hàng hóa bổ trợ (dịch
vụ về lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, dịch vụ thể thao, văn
phòng, an ninh…) cho quá trình tổ chức sự kiện thông qua các hợp đồng
(hoặc các hình thức thỏa ước khác) được ký kết với nhà tổ chức
sự kiện, họ có những ràng buộc, quyền lợi, nghĩa vụ nhất định liên
quan đến quá trình tổ chức sự kiện.
Do tính đa dạng về loại hình dịch vụ có trong sự
kiện, nên nhà tổ chức sự kiện khó có thể đảm đương tự cung ứng tất cả
các dịch vụ cho khách hàng trong sự kiện. Vì vậy họ cần đến các
nhà cung ứng dịch vụ cho sự kiện. Chúng tôi gọi chung nhóm này là:
nhà cung ứng dịch vụ bổ trợ cho sự kiện/ các nhà cung ứng trung
gian.
Thành phần này có thể được xem là nhà cung
ứng dịch vụ tổ chức sự kiện, tuy nhiên để tránh nhầm lẫn với nhà tổ
chức sự kiện (cũng là nhà cung cấp dịch vụ tổ chức sự kiện) mặt
khác để làm nổi bật vai trò trung gian của nhà tổ chức sự kiện trong
quá trình cung ứng các hàng hóa, dịch vụ cho khách, trong tài liệu
này chúng tôi thống nhất gọi thành phần này là: các nhà cung ứng
dịch vụ bổ trợ tổ chức sự kiện.
Một nhóm đối tượng thuộc sự chỉ đạo của nhà
tổ chức sự kiện thường gặp ở các sự kiện lớn đặc biệt là các sự
kiện mang tính xã hội cao đó là: Tình
nguyện viên tham gia sự kiện.
Tình nguyện viên tham gia sự
kiện là
những người tình nguyện tham gia vào quá trình tổ chức và diễn ra
sự kiện, thường với tư cách hỗ trợ cho quá trình tổ chức sự kiện,
họ chịu sự chỉ đạo giám sát của ban tổ chức sự kiện/ nhà tổ chức
sự kiện.
Khách mời tham gia sự kiện (về sau gọi tắt là: khách mời) là
những tổ chức, doanh nghiệp hoặc cá nhân được chủ đầu tư sự kiện chủ động mời
tham dự vào các diễn biến, hoạt động của sự kiện, họ là đối tượng chính mà
mục tiêu sự kiện muốn tác động đến. Vì
vậy, khách mời tham gia sự
kiện là một trong các yếu tố cần tính tới khi lập chương trình, kế hoạch và
nội dung tổ chức sự kiện.
Khách mời tham gia sự kiện thường là miễn phí, nhưng
cũng có trường hợp phải trả những khoản phí nhất định để đổi lại họ sẽ nhận
được những giá trị nhất định về tinh thần hoặc vật chất.
Khách mời tham gia sự kiện có thể là khán
giả, trong trường hợp sự kiện có bán vé; Tuy nhiên có những đối tượng cũng là khán giả của các
sự kiện nhưng không phải là khách mời, nếu họ không phải là đối tượng
mà nhà tổ chức sự kiện muốn thu hút, họ chỉ tình cờ tham gia sự kiện
với hình thức vô tình, vãng lai.
Khách vãng lai tham gia sự kiện (về sau gọi tắt là: khách
vãng lai) là những tổ chức doanh nghiệp hoặc cá nhân do một lý do nào đó tham
gia vào sự kiện nhưng không thuộc các nhóm nói trên.
Khách vãng lai thường vẫn được tính đến trong chương
trình, kế hoạch tổ chức sự kiện. Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng của nhóm này đến sự
kiện không đáng kể. Trong một số trường hợp, khách vãng lai tham gia sự kiện có
thể trở thành khách mời trong quá trình tiến hành sự kiện.
Chính quyền và cư dân nơi diễn ra sự kiện: là chính quyền và cư dân giới
hạn trong một phạm vi địa lý nào đó chịu ảnh hưởng trong thời gian tiến hành sự
kiện.
Phạm vi giới hạn là lớn hay nhỏ, tùy theo mức độ ảnh
hưởng cũng như quy mô của sự kiện. Phạm vi này có thể là: xóm thôn, phường xã,
một cơ quan, trường học và rộng hơn có thể là một thành phố, điểm du lịch, vùng
lãnh thổ, quốc gia…
Trên đây là các thuật ngữ cơ bản, các thuật ngữ này
cùng với các thuật ngữ chuyên môn khác có liên quan sẽ được mô tả chi tiết hơn
ở những nội dung tiếp theo.
1.1.4.
Đặc
điểm của tổ chức sự kiện
Từ cách hiểu, Tổ
chức sự kiện là một quá trình bao gồm một số hoặc toàn bộ các công việc:
nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng; lập chương trình, kế hoạch; chuẩn bị các yếu tố cần thiết; và tổ
chức tiến hành diễn biến của sự kiện trong một thời gian và không gian cụ thể
để truyền đạt những thông điệp nhất định đến những người tham gia sự kiện và xã
hội; nhằm đáp ứng các mục đích khác nhau của các chủ thể tham gia vào sự kiện. Có
thể khẳng định tổ chức sự kiện là một loại hình kinh doanh dịch
vụ, rất đa dạng phong phú do đó nó vừa chịu sự chi phối của đặc điểm kinh
doanh dịch vụ nói chung vừa mang đặc điểm riêng biệt của nghề tổ chức sự kiện.
Với cách tiếp cận trên ta có thể xác định được những đặc điểm cơ bản trong kinh
doanh tổ chức sự kiện như sau:
1.1.4.1.Đặc điểm về sản phẩm
của dịch vụ tổ chức sự kiện
Có thể khẳng định rằng, đặc điểm cơ bản nhất về
sản phẩm của dịch vụ tổ chức sự kiện là: Sản phẩm của tổ chức sự kiện mang tính tổng hợp cao, nó là sự kết
hợp giữa hàng hoá và dịch vụ trong đó
dịch vụ chiếm tỷ trọng đa số.
Tính tổng hợp thể hiện ở chỗ: tổ
chức sự kiện cần đến dịch vụ của rất nhiều ngành nghề khác nhau như:
vận chuyển, lưu trú, ăn uống, giải trí, biểu diễn, in ấn, an ninh, xây
dựng, thiết kế… Vì tổ chức sự
kiện liên quan đến việc nghiên cứu các
yếu tố ảnh hưởng; lập chương trình, kế hoạch; chuẩn bị các yếu tố cần thiết; và
tổ chức tiến hành diễn biến của sự kiện nên nó mang tính dịch vụ rõ
rệt. Cần lưu ý trong sản phẩm của tổ chức sự kiện cũng có những yếu
tố hàng hóa (hữu hình) nhất định, như các sản phẩm vật chất; thức
ăn, đồ uống… vì vậy nếu chỉ nói sản phẩm của tổ chức sự kiện là
dịch vụ sẽ không hoàn toàn chính xác mà phải nói dịch vụ chiếm tỷ
trọng đa số
Từ đặc điểm cơ bản nói trên, mà sản phẩm của các
tổ chức sự kiện thường có các đặc điểm phổ biến của dịch vụ như:
- Thời gian sản xuất và thời
gian tiêu dùng thường trùng nhau. Đánh giá chất lượng sự kiện chỉ có
thể thực hiện một cách chính xác sau khi sự kiện đã được tiến hành.
- Khách thường mua sản phẩm
của nhà tổ chức sự kiện trước khi nhìn thấy (hoặc tiêu dùng) nó.
Lao động trong tổ chức sự kiện có các đặc điểm cơ
bản như:
1.1.4.2.1.
Lao động trong tổ chức sự kiện đòi hỏi tính chuyên môn
hóa cao và đa dạng về ngành nghề, công việc, máy móc khó có thể
thay thế con người. Lao động trong tổ chức sự kiện là lao động dịch vụ
đặc thù, rất khó tự động hoá và cơ giới hoá. Trong
thực tế mỗi nghiệp vụ trong tổ chức sự kiện đòi hỏi số lượng nhân
viên có chuyên môn phù hợp. Do mục tiêu của các sự kiện đặt ra rất cao,
vì vậy tính chuyên môn hóa mới có thể đạt được kết quả trong các
công việc của tổ chức sự kiện.
1.1.4.2.2.
Tính tổ chức, khả năng phối hợp công việc của các bộ phận
trong một sự kiện đòi hỏi phải đồng bộ, nhịp nhàng nhằm đảm bảo các mục
tiêu của sự kiện. Tổ chức sự kiện là sự hỗn hợp của những loại hình kinh
doanh khác nhau, thực hiện những chức năng khác nhau, có kiến thức, quan điểm
khác nhau. Tất cả các bộ phận quản lý và nhân viên tham gia tổ chức sự kiện
đều phải cùng mục tiêu mang lại thành công chung cho sự kiện. Do vậy, cần phải có sự hợp tác một cách nhịp
nhàng và đồng bộ giữa các bộ phận. Có hàng trăm vấn đề khác nhau cùng xảy ra
cùng một lúc trong quy trình tổ chức sự kiện. Việc điều phối và giải quyết vấn đề liên tục xảy ra và không bao
giờ chấm dứt trong cả quy trình này, từ
khi xây dựng chủ đề ý tưởng cho đến khi kết thúc sự kiện.
1.1.4.2.3. Cường độ làm việc tương
đối nặng (về mặt trí óc), mang tính sự vụ, phụ thuộc rất nhiều
vào tiến độ, kế hoạch của sự kiện.
1.1.4.2.4. Lao động trong tổ chức sự
kiện phải chịu một sức ép tâm lý tương đối lớn. Họ phải chịu sự
chi phối của kế hoạch tiến độ, mặt khác lại đòi hỏi sự năng động
sáng tạo (hai đòi hỏi hơi trái ngược nhau); mặt khác do đặc tính lao
động dịch vụ nên phải giao tiếp với rất nhiều đối tượng khác nhau,
lại có yêu cầu luôn phải có thái độ vui vẻ, chuẩn mực trong công việc.
1.1.4.3.
Đặc điểm về vị trí và cơ sở vật chất kỹ thuật
trong tổ chức sự kiện
Đặc điểm về hoạt động
Tính tổ chức, khả năng phối hợp công việc của các bộ phận trong tổ chức
sự kiện đòi hỏi phải đồng bộ, nhịp nhàng với mục tiêu phục vụ khách với chất
lượng cao nhất nhằm đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của khách.
1.1.5.
Sơ
lược về thị trường tổ chức sự kiện ở Việt Nam
Như trên đã đề cập, sự kiện đó là các hoạt động xã hội trong lĩnh vực thương mại, giải trí,
thể thao, hội thảo, hội nghị, giao tiếp xã hội, các trò chơi cộng đồng, và
các hoạt động xã hội khác liên quan đến lễ hội, văn hóa, phong tục- tập
quán… Từ trước đến nay các hoạt động này đã thường xuyên diễn ra tuy nhiên, chủ yếu do chính nhà đầu
tư sự kiện trực tiếp đứng ra tổ chức. Một số sự kiện lớn có tầm
quan trọng người ta thường lập ban tổ chức, tuy nhiên trong quá trình
tổ chức do hạn chế về nhiều mặt nên hiệu quả còn những hạn chế
nhất định.
Với các sự kiện mang tính chất văn hóa, phong
tục tập quán… hoặc các sự kiện đơn giản như đám cưới, hội họp, gặp
mặt… việc tổ chức không quá phức tạp, người chủ trì chỉ cần có
một số kinh nghiệm nhất định cũng có thể thực hiện được.
Tuy nhiên, khi điều kiện kinh tế xã hội phát
triển, cùng với sự hội nhập vào kinh tế và văn hóa của nhân loại,
sự tác động của các phương tiện thông tin đại chúng (đặc biệt là
Internet) nhu cầu, mục tiêu của chủ đầu tư sự kiện thường cao hơn rất
nhiều. Ngay cả những sự kiện mang tính phổ biến và đơn giản nói trên
việc tổ chức theo kinh nghiệm sẽ không đáp ứng được các yêu cầu của
chủ đầu tư sự kiện, điều này đòi hỏi cần có những nhà tổ chức sự
kiện chuyên nghiệp.
Đặc biệt, đối với các sự kiện liên quan đến
kinh doanh, thương mại như: các buổi lễ khai trương, giới thiệu sản phẩm,
quảng cáo, quan hệ công chúng, triển lãm, hội chợ, gặp mặt khách
hàng… do tầm quan trọng, mức độ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp nên nếu chủ đầu tư là các doanh nghiệp tất
yếu cần đến các nhà tổ chức sự kiện chuyên nghiệp để đạt được các mục tiêu của mình.
Ngoài ra, do tính chất rất phức tạp của các
sự kiện, cũng như để đạt được ý tưởng, mục tiêu khi tổ chức sự
kiện cần phải có các nhà tổ chức sự kiện chuyên nghiệp để tận
dụng kinh nghiệm và khả năng tổ chức của đội ngũ này.
Một lý do khác, khi diễn ra một sự kiện đặc
biệt là các sự kiện tương đối lớn các dịch vụ cần có cho sự kiện
rất đa dạng (như các dịch vụ về trang trí, sân
khấu, dẫn chương trình, tiếp đón, lưu trú, ăn uống…) một doanh
nghiệp, một tổ chức vừa đóng vai trò là chủ đầu tư sự kiện kiêm
nhà tổ chức sự kiện sẽ không đủ thông tin, kinh nghiệm để đảm đương
hết tất cả các dịch vụ này.
Điểm cuối cùng Việt Nam với gần 90 triệu dân,
cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế- xã hội đây chắc chắn
sẽ là một thị trường có quy mô về cầu rất khả quan cho các nhà tổ
chức sự kiện chuyên nghiệp.
Xu hướng phát
triển của cầu về dịch vụ tổ chức sự kiện
Theo kết quả
khảo sát vào năm 2006 của công ty nghiên cứu thị trường FTA thì tổ chức sự kiện là công cụ marketing được sử
dụng phổ biến nhất, chỉ đứng sau quảng cáo và nghiên cứu thị trường.
Trung bình hàng
năm trên thế giới các doanh nghiệp chi hơn 20 tỉ USD cho việc quảng bá sản
phẩm và 15 tỉ USD cho việc tổ chức các sự kiện khác nhau như hội nghị khách
hàng, giới thiệu và trưng bày sản phẩm…
Theo các chuyên
gia thì xu thế mới nhất hiện nay là tổ chức các event có “chủ đề”. Các chủ đề
này được thu thập từ các nền văn hóa khác nhau sau đó được chọn lọc lại thành
một bố cục tổng thể cho event và tạo nên một sự kiện mang tính khác biệt cao về
sáng tạo và thiết kế.
Mục đích chính
của xu hướng này là đảm bảo giá trị giải trí lẩn thương mại và mở ra một hướng
đi riêng cho các công ty trong việc nâng cao độ nhận biết thương hiệu, độ am
hiểu sản phẩm và thâm chí là thu hút cả một thế hệ khách hàng tiềm năng trong
tương lai.
Riêng tại thị
trường Việt Nam, việc tổ chức các sự kiện của các công ty đã thay đổi rõ rệt về
chất lượng và số lượng. Ngày càng có nhiều công ty tìm kiếm nhà cung cấp dịch
vụ chuyên nghiệp, bởi họ đã nhận ra việc tổ chức sự kiện có ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với hình ảnh thương hiệu của họ.
Việt Nam gia
nhập WTO đươc hơn 1 năm, ngành công nghiệp quảng cáo trong nước phát triển mạnh
mẽ và nhiều đại gia quảng cáo trên thế giới đang ồ ạt đổ xô vào thị trường Việt
Nam, nhiều công ty quảng cáo trong nước được thành lập, điều này tạo nên một sự
cạnh tranh gay gắt về ý tưởng, chất lượng và giá cả. Việc nhiều tập đoàn lớn
đầu tư vào Việt Nam, nhiều sản phẩm, dịch vụ đa dạng và mới lạ được mang đến
với người tiêu dùng là một mãnh đất màu mở để ngành quảng cáo khai thác.
(theo www.vneconomy.vn )
Đối với cung tổ chức sự kiện hiện nay ở Việt Nam có thể thấy chưa có ngành
kinh doanh dịch vụ tổ chức sự kiện độc lập. Số công ty chuyên về kinh
doanh tổ chức sự kiện còn rất ít (xem phụ lục: một số công ty tổ
chức sự kiện ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh). Các công ty có
tham gia tổ chức sự kiện chủ yếu là: Các doanh nghiệp quảng cáo, marketing; doanh nghiệp tổ chức hội
chợ triển lãm; các công ty du lịch; khách sạn và một số doanh
nghiệp có cơ sở tổ chức hội thảo hội nghị, sân vận động…
Một số sự kiện được tổ chức theo kiểu lập ban
tổ chức. Ban tổ chức được thành lập từ nhiều thành phần khác nhau,
trong đó giữ vai trò chính là chủ đầu tư sự kiện. Khi sự kiện kết
thúc thì ban tổ chức cũng thường tự giải thể, như vậy vừa không tận
dụng được kinh nghiệm của các nhà tổ chức sự kiện quen thuộc, vừa
tốn kém, lãng phí.
Về chất lượng dịch vụ tổ chức sự kiện, các
doanh nghiệp chủ yếu thực hiện theo hình thức tự học hỏi là chính.
Hiện nay nhân sự tốt cho lĩnh vực tổ chức sự kiện còn chưa nhiều. Tại Việt Nam
cũng chưa hề có trường lớp đào tạo bài bản, chính quy cho nghề tổ chức sự kiện,
tuy cũng đã lác đác có một vài trường đã đưa môn học vào giảng dạy (Đại học Báo
chí, ĐH Kinh tế, ĐH Hà Nội…) nhưng người làm nghề này chủ yếu chỉ học từ những
thành bại của mỗi sự kiện, từ những người đi trước và từ chính yêu cầu của
khách hàng, một số sự kiện còn được tiến hành theo cảm tính chủ
quan. Ngay cả các thông tin về việc tổ chức sự kiện ở Việt Nam cũng còn rất hạn chế (khi
tiến hành biên soạn tài liệu này chúng tôi chỉ tìm được duy nhất
một cuốn sách chuyên khảo có liên quan trực tiếp) các thông tin trên
Internet, báo chí (tiếng Việt) cũng
rời rạc, chỉ đề cập đến các vấn đề cụ thể chưa mang tính hệ thống.
Có thể nói, hoạt động cung ứng dịch vụ tổ
chức sự kiện còn ở quy mô nhỏ, chất lượng dịch vụ còn thấp, tính
cạnh tranh chưa cao, các doanh nghiệp nước ngoài cũng chưa tham gia sâu
vào thị trường này. Theo đánh
giá của nhiều chuyên gia, xu hướng tất yếu sẽ có nhiều công ty tổ
chức sự kiện chuyên nghiệp ra đời đáp ứng các yêu cầu cơ bản về
tính chuyên nghiệp, sự phong phú về sản phẩm, đạt chất lượng dịch
vụ cao đáp ứng nhu cầu về dịch vụ tổ chức sự kiện trên thị trường Việt Nam.
Với những điểm sơ lược về thị trường tổ chức
sự kiện ở Việt Nam hiện nay như
trên có thể thấy rằng hiện nay mặc dù cung- cầu dịch vụ tổ chức sự
kiện ở Việt Nam còn những hạn
chế nhất định nhưng có thể khẳng định và tin tưởng rằng trong tương
lai gần với sự phát triển của kinh tế xã hội Việt Nam, cùng với sự hội nhập về kinh tế, xã hội
chắc chắn thị trường dịch vụ tổ chức sự kiện ở Việt Nam sẽ có những bước phát
triển vượt bậc.
1.2.
CÁC
LOẠI HÌNH SỰ KIỆN
Với cách tiếp cận, sự kiện đó là các hoạt động xã hội trong lĩnh vực
thương mại, giải trí, thể thao, hội thảo, hội nghị, giao tiếp xã hội, các
trò chơi cộng đồng, và các hoạt động xã hội khác liên quan đến lễ hội, văn
hóa, phong tục- tập quán… có thể thấy
sự kiện rất đa dạng phong phú về hình thức cũng như nội dung của nó.
Trong quá trình nghiên cứu, học tập cũng như trong
thực tế hoạt động kinh doanh dịch vụ tổ chức sự kiện đòi hỏi phải phân loại sự
kiện thành những nhóm khác nhau, với mỗi nhóm sự kiện được phân loại
theo những tiêu chí nhất định được gọi là một loại hình sự kiện.
Các tiêu chí được sử dụng phổ biến trong phân loại sự kiện bao gồm:
- Quy mô, lãnh thổ
- Thời gian
- Hình thức và mục đích sự kiện
1.2.2.
Theo
quy mô, lãnh thổ
Quy mô của sự kiện là một tiêu chí định lượng, tuy nhiên không chỉ dựa
vào số lượng người tham gia, hay quy mô của không gian tổ chức sự kiện để phân
loại mà còn phải dựa vào mức độ ảnh hưởng của sự kiện để xác định quy mô (vì
có những sự kiện ở một xã có rất nhiều người tham gia, được tổ chức ở sân vận
động xã nhưng cũng không thể gọi là sự kiện lớn được)
-
Sự kiện lớn: Là những sự kiện có mức độ ảnh hưởng lớn ở phạm
vi quốc gia, quốc tế, thường có sự tham gia của nhiều người, thời gian tổ
chức sự kiện khá dài, nội dung hoạt động đa dạng, phong phú. Ví dụ: Lễ hội chùa
Hương, SEAGAMES23, hội nghị thượng đỉnh các nước nói tiếng Pháp…
-
Sự kiện nhỏ: Là những sự kiện có mức độ ảnh hưởng hẹp (thường
giới hạn trong phạm vi một tổ chức doanh nghiệp hoặc gia đình), thường có sự
tham gia của ít người, thời gian tổ chức sự kiện khá ngắn, nội dung hoạt động
ít… Ví dụ: hội nghị tổng kết của công ty A, đám cưới của anh Nguyễn Văn B, một
cuộc họp lớp cuối năm…
Do thời gian hạn chế, chúng tôi chỉ đưa ra những gợi ý
mang tính chất tương đối như trên. Với cách tiếp cận này còn có thể đưa ra một
mức độ trung gian giữa sự kiện lớn và sự kiện nhỏ đó là những sự kiện vừa
(trung bình).
Theo lãnh thổ có thể chia thành: sự kiện địa phương
(lễ kỷ niệm 10 năm ngày tái thành lập lập huyện A), sự kiện của một vùng (lễ
hội cồng chiêng ở Tây Nguyên), sự kiện quốc gia (Hội khỏe Phù đổng toàn quốc
lần thứ…), sự kiện quốc tế (Lễ hội Olimpic…)
1.2.3.
Theo
thời gian
Tiêu chí thời gian có thể căn cứ theo độ dài thời gian hoặc
tính thời vụ.
- Theo độ dài thời gian, căn
cứ vào thời gian diễn ra sự kiện có thể chia thành: Sự kiện dài ngày, sự kiện
ngắn ngày.
- Theo tính mùa vụ có thể chia
thành: Sự kiện thường niên- diễn ra vào các năm thường vào những thời điểm nhất
định như (Hội nghị tổng kết, lễ báo công, hội nghị khách hàng thường niên, họp
đồng hương đầu năm/ cuối năm, các lễ hội thường niên…); Sự kiện không thường
niên: không mang tính quy luật, không có hiện tượng lặp lại ở các năm (ví
dụ: lễ khai trương cửa hàng, hội thảo du học Lào, triển lãm hàng nông nghiệp
tỉnh A…)
1.2.4.
Theo
hình thức và mục đích
Đây là cách phân loại phổ biến có ý nghĩa trong nghiệp vụ tổ chức sự kiện.
Vì hình thức tổ chức sự kiện thường phụ thuộc vào mục đích sự kiện nên nó
thường đi liền với nhau. Trong tài liệu này chúng tôi tạm chia thành các nhóm sau:
- Sự kiện kinh doanh: là những sự kiện có liên quan đến
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
+ Sự kiện kinh doanh (Bussiness event)
+ Các ngày lễ của doanh nghiệp (Corporate events): Như kỷ niệm ngày sinh
nhật, ngày truyền thống của công ty…
+ Sự kiện gây quỹ (Fundraising events)
+ Triển lãm (Exhibitions)
+ Hội chợ thương mại (Trade fairs)
+ Sự kiện liên quan đến bán hàng (Workshops)
+ Sự kiện liên quan tới marketing (Marketing events)
+ Sự kiện kết hợp khuyến mãi, xúc tiến thương mại (Promotional events)
+ Sự kiện tung thương hiệu, sản phẩm (Brand and product launches)
+ Hội nghị khách hàng, giao lưu, gặp gỡ (Customers
Meetings; Customers Conferences, Conventions)
+ Các loại hội nghị thường niên: tổng kết các kỳ, đại hội cổ đông…
+ Lễ khai trương, khánh thành, động thổ…
+ Các sự kiện khác liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Sự kiện giáo dục, khoa học: Đó là những sự kiện liên quan đến
giáo dục, khoa học như.
+ Hội thảo, hội nghị (Education/ Training Meetings;
Seminars, Conferences, Conventions) về văn hóa giáo dục: diễn thuyết, chuyên
đề, hội thảo du học…
+ Liên hoan, hội giảng, các cuộc thi: Hội giảng giáo
viên dạy giỏi, thi học sinh giỏi, Gặp mặt sinh viên xuất sắc.
+ Các trò chơi (game show) mang tính giáo dục
- Sự kiện văn hóa truyền thống: Liên quan đến văn hóa, truyền
thống, tôn giáo- tín ngưỡng và phong tục tập quán, bao gồm:
+ Lễ hội truyền thống (Traditional festival events)
+ Cưới hỏi
+ Ma chay
+ Mừng thọ
+ Sinh nhật
+ Social and cultural events: Event văn hoá xã hội
+ Giao lưu văn hóa
+ Các lễ kỷ niệm truyền thống khác: như họp đồng hương, kỷ niệm ngày
thành lập…
- Sự kiện âm nhạc, nghệ
thuật, giải trí:
+ Entertainment events: Event giải trí
+ Hội thi nghệ thuật (ví dụ: liên hoan tiếng hát học sinh- sinh viên, hội
diễn sân khấu chuyên nghiệp…)
+ Concerts/live performances: Hoà nhạc, diễn sống, liveshow
+ Festive events: Event lễ hội
+ Triển lãm nghệ thuật
+ Biểu diễn nghệ thuật
+ Khai trương: giới thiệu Anbum mới, ban nhạc.
+ Biểu diễn từ thiện, biểu diễn đánh bóng tên tuổi, tạp kỹ…
- Sự kiện thể thao:
+ Thi đấu
+ Hội thi, hội khỏe…
+ Đón tiếp, chào mừng, báo công, tiễn đoàn…
+ Giao lưu thể thao
- Sự kiện chính thống/ Sự kiện của nhà nước (Government events): Loại sự kiện thường
có những chuẩn mực và quy tắc riêng, chủ đầu tư sự kiện chính là các cơ quan
nhà nước.
+ Tổng kết; Khen thưởng, tuyên dương
+ Phát động phong trào
+ Hội thảo, hội nghị…
+ Họp báo; Hội nghị hiệp thương
+ Đón tiễn…
- Sự kiện truyền thông: là các sự kiện có tính truyền thông
cao, thường do một hay nhiều cơ quan truyền thông báo chí là chủ đầu tư sự
kiện, hoặc có sự tham gia của các cơ quan truyền thông trong quá trình tiến
hành sự kiện.
+ Lễ ghi nhận thương hiệu
+ Thu hút nhà tài trợ
+ Kỷ niệm
+ Gây quỹ
+ Phát động phong trào…
+ Họp báo, thông cáo báo chí…
Cần lưu ý rằng sự những phân loại nói trên chỉ mang tính chất tương đối,
trong thực tế một hình thức sự kiện có thể thuộc nhiều loại sự kiện khác nhau.
Ví dụ: hội thảo, hội nghị… Mặt khác với từng sự kiện cụ thể có thể cùng thuộc
hai hay nhiều loại nói trên.
1.3.
NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
TỚI TỔ CHỨC SỰ KIỆN
Tổ chức sự kiện là một hoạt động dịch vụ, có rất nhiều yếu
tố ảnh hưởng đến lĩnh vực này. Tiếp cận theo quan điểm marketing có
thể chia các yếu tố ảnh hưởng đến sự kiện thành hai nhóm chính đó
là: các yếu tố vĩ mô và các yếu tố vi mô.
1.3.2.
Các
yếu tố vĩ mô
Bao gồm các yếu tố, các lực lượng mang tính chất xã hội rộng lớn, chúng
có tác động ảnh hưởng tới hoạt động tổ chức sự kiện.
Môi trường nhân khẩu học:
Bao gồm các vấn đề về dân số và con người như quy mô,
mật độ, phân bố dân cư, tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết, tuổi tác, giới tính, sắc tộc,
nghề nghiệp...tạo ra các loại thị trường cho doanh nghiệp tổ chức sự kiện, vì
vậy môi trường nhân khẩu học là mối quan tâm lớn của các nhà hoạt động thị
trường.
Những doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Tổ chức sự
kiện thường quan tâm tới môi trường nhân khẩu học trước hết là ở qui mô và tốc
độ tăng dân số. Bởi vì, hai chỉ tiêu đó phản ánh trực tiếp qui mô nhu cầu tổng
quát trong hiện tại và tương lai, và do đó nó cũng phản ánh sự phát triển hay
suy thoái của thị trường.
Sự thay đổi về cơ cấu tuổi tác, cơ cấu, qui mô hộ gia
đình trong dân cư cũng làm thay đổi cơ cấu khách hàng tiềm năng, nó tác động
quan trọng tới cơ cấu tiêu dùng và nhu cầu về các loại hàng hoá. Vì vậy làm cho
các hoạt động Tổ chức sự kiện thay đổi thường xuyên, liên tục.
Một vấn đề khác liên quan đến sự biến đổi thị trường
và do đó liên quan đến hoạt động Tổ chức sự kiện là quá trình đô thị hoá và
phân bố lại dân cư. Các vùng đô thị tập trung luôn luôn là thị trường chính
của dịch vụ tổ chức sự kiện. Bên cạnh đó, việc phân bố lại lực lượng sản
xuất, phân vùng lãnh thổ, đặc khu kinh tế cũng tạo ra các cơ hội thị trường mới
đầy hấp dẫn.
Môi trường kinh tế:
Thể hiện ở tốc độ tăng trưởng kinh tế, cơ cấu vùng từ
đó tạo ra tính hấp dẫn về thị trường và sức mua, cơ cấu chi tiêu khác nhau đối
với các thị trường hàng hoá khác nhau.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia tổ chức sự
kiện, thì các sự kiện liên quan đến hoạt động kinh doanh, thương mại
của các doanh nghiệp chiếm hơn 60% về số lượng, và 75% về ngân sách
tổ chức sự kiện. Mà nhu cầu của các doanh nghiệp này lại chịu ảnh hưởng trực tiếp từ môi
trường kinh tế do đó môi trường kinh tế sẽ có những ảnh hưởng rất
lớn đến dịch vụ tổ chức sự kiện.
Ngoài ra cùng với sự phát triển của đời sống
xã hội, mà yếu tố chi phối lớn nhất là thu nhập của người dân sẽ
tác động đến tổ chức sự kiện. Ví dụ,
khi thu nhập của người dân nâng cao các sự kiện mang tính chất truyền
thống (như cưới hỏi, sinh nhật, giao tiếp xã hội…) sẽ ngày càng
nhiều, đòi hỏi tính chuyên nghiệp ngày càng cao, đây là một mảng sự
kiện mà các nhà kinh doanh cần phải quan tâm, chuẩn bị các điều kiện
để cạnh tranh trong tương lai.
Môi trường tự nhiên:
Bao gồm hệ thống các yếu tố tự nhiên ảnh hưởng đến đầu
vào cần thiết cho các nhà sản xuất kinh doanh và gây ảnh hưởng cho các hoạt
động tổ chức sự kiện.
Các yếu tố ảnh hưởng rõ rệt nhất từ môi trường tự nhiên có
thể chỉ ra là:
- Thời tiết, khí hậu ảnh
hưởng trực tiếp đến việc tổ chức sự kiện, đặc biệt là các sự kiện
dự định tổ chức ở không gian ngoài trời.
- Các vấn đề về ô nhiễm
và bảo vệ môi trường: Cộng đồng dân cư và chính quyền nơi diễn ra sự
kiện, thường có những nhận thức nhất định về vấn đề ô nhiễm và
bảo vệ môi trường. Điều này tác động đến việc lựa chọn các chủ đề
cũng như hoạt động trong sự kiện, nếu không đáp ứng được các yêu cầu
tối thiểu về môi trường, xử lý
rác thải… nhà tổ chức sự kiện có thể sẽ không được cấp phép cho việc
tổ chức sự kiện.
Môi trường công nghệ kỹ thuật:
Bao gồm các nhân tố gây tác động ảnh hưởng đến công
nghệ mới, sáng tạo sản phẩm và cơ hội thị trường mới, ảnh hưởng đến việc thực
thi các giải pháp cụ thể của tổ chức sự kiện.
Tiến bộ kỹ thuật hỗ trợ cho tổ chức sự kiện ở nhiều lĩnh vực
như:
- Trong việc quản lý, lập kế
hoạch tổ chức sự kiện
- Trong quá trình chuẩn bị sự
kiện (như chuẩn bị địa điểm, trang trí)
- Trong hoạt động thông tin liên
lạc hỗ trợ cho tổ chức sự kiện.
- Trong quá trình đưa đón, vận
chuyển khách đến với sự kiện
- Trong việc trình diễn (kỹ
thuật âm thanh, ánh sáng, các hiệu ứng đặc biệt)…
Môi trường chính trị:
Là một trong những yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến các
quyết định tổ chức sự kiện của cả nhà đầu tư và tổ chức sự kiện. Nó bao
gồm hệ thống luật và các văn bản dưới luật, các công cụ, chính sách của nhà nước,
tổ chức bộ máy, cơ chế điều hành của chính phủ và các tổ chức chính trị, xã
hội. Sự tác động của môi trường chính trị tới các quyết định Tổ chức sự
kiện phản ánh sự tác động can thiệp của các chủ thể quản lý vĩ mô tới kinh
doanh của doanh nghiệp. Ví dụ,
các quy định của nhà nước về thủ tục hành chính sẽ tác động không
nhỏ đến hoạt động tổ chức sự kiện nếu không nắm vững điều này sẽ gặp
khó khăn rất lớn trong hoạt động tổ chức sự kiện.
Môi trường văn hoá:
Văn hoá được coi là một hệ thống giá trị, quan niệm,
niềm tin, truyền thống và các chuẩn mực hành vi đơn nhất với một nhóm người cụ
thể nào đó được chia sẻ một cách tập thể, bao gồm: những giá trị văn hoá truyền
thống căn bản, những giá trị văn hoá thứ phát, các nhánh văn hoá của một nền
văn hoá.
+ Những giá trị văn hoá
truyền thống căn bản: Đó là các giá trị chuẩn mực và niềm tin trong xã hội có mức
độ bền vững, khó thay đổi, tính kiên định rất cao, được truyền từ đời này qua
đời khác và được duy trì qua môi trường gia đình, trường học, tôn giáo, luật
pháp nơi công sở... và chúng tác động mạnh mẽ, cụ thể vào những thái độ, hành
vi ứng xử hàng ngày, hành vi mua và tiêu dùng hàng hoá của từng cá nhân, từng
nhóm người.
+ Những giá trị văn hoá thứ
phát: Nhóm
giá trị chuẩn mực và niềm tin mang tính “thứ phát” thì linh động hơn, có khả
năng thay đổi dễ hơn so với nhóm căn bản các giá trị chuẩn mực về đạo đức, văn
hoá thứ phát khi thay đổi hay dịch chuyển sẽ tạo ra các cơ hội thị trường hay
các khuynh hướng tiêu dùng mới, đòi hỏi các hoạt động Tổ chức sự kiện phải
bắt kịp và khai thác tối đa.
+ Các nhánh văn hoá của một
nền văn hoá: Có
những “tiểu nhóm” văn hoá luôn luôn tồn tại trong xã hội và họ chính là những
cơ sở quan trọng để hình thành và nhân rộng một đoạn thị trường nào đó. Những
nhóm này cùng chia sẻ các hệ thống giá trị văn hoá - đạo đức - tôn giáo... nào
đó, dựa trên cơ sở của những kinh nghiệm sống hay những hoàn cảnh chung, phổ
biến. Đó là những nhóm tín đồ của một tôn giáo hay giáo phái nào đó, nhóm thanh
thiếu niên, nhóm phụ nữ đi làm...
Nói chung, các giá trị văn hoá chủ yếu trong xã hội
được thể hiện ở quan niệm hay cách nhìn nhận, đánh giá con người về bản thân
mình, về mối quan hệ giữa con người với nhau, về thể chế xã hội nói chung, về
thiên nhiên và về thế giới. Ngày nay con người đang có xu thế trở về với cộng
đồng, hoà nhập chung sống hoà bình, bảo về và duy trì, phát triển thiên nhiên,
môi trường sinh thái. Sự đa dạng hoá, giao thoa của
các nền văn hoá, sắc tộc và tôn giáo khiến các hoạt động Tổ chức sự kiện
cần phải thích ứng để phù hợp với các diễn biến đó.
Tóm lại, môi trường tổ chức sự kiện vĩ mô cũng hết
sức rộng lớn và ảnh hưởng nhiều mặt tới hoạt động Tổ chức sự kiện của doanh
nghiệp.
1.3.3.
Các
yếu tố vi mô
Để tổ chức thành công một sự kiện, các nhà tổ chức sự kiện phải
sử dụng một cách tối ưu các nguồn lực của mình, ngoài ra cần phải
cân nhắc ảnh hưởng của những người cung ứng dịch vụ trung gian, đối thủ cạnh
tranh, khách hàng (nhà đầu tư/ tài trợ sự kiện).
Nhóm các yếu tố vi mô bao gồm các yếu tố liên quan
chặt chẽ đến nhà tổ chức sự kiện và sự kiện cụ thể, nó có ảnh hưởng
trực tiếp đến quy trình tổ chức sự kiện. Các yếu tố vi mô bao gồm:
Các yếu tố bên trong doanh nghiệp tổ
chức sự kiện
Nguồn lực của nhà tổ chức sự kiện (resource): nguồn
nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức sự kiện, các mối quan
hệ với nhà cung ứng dịch vụ, với chính quyền…
Các nhà cung ứng dịch vụ bổ
trợ tổ chức sự kiện
Những người cung ứng dịch vụ bổ trợ tổ chức sự
kiện là các doanh nghiệp và các cá nhân đảm bảo cung ứng các yếu tố cần thiết
cho nhà tổ chức sự kiện và các đối thủ cạnh tranh để có thể thực hiện triển
khai được các sự kiện.
Các nhà cung ứng dịch vụ bổ trợ sự kiện sẽ
ảnh hưởng đến các yếu tố như:
+ Địa điểm tổ chức sự kiện (venue)
+ Cách thức phục vụ (catering)
+ Hình thức giải trí (entertainment, artist, speaker)
+ Cách trang trí (decoration), âm thanh ánh sáng (sound and light)
+ Các kỹ xảo hiệu ứng đặc biệt (audiovisual, special effects)…
Bất kỳ có sự thay đổi nào từ phía người cung ứng cũng sẽ gây ra ảnh hưởng tới hoạt động tổ chức
sự kiện. Để đảm bảo ổn định và có sự lựa chọn, cạnh tranh…cho việc cung
cấp các dịch vụ đúng chất lượng, số lượng và thời gian, phần lớn các doanh
nghiệp tổ chức sự kiện đều thiết lập mối quan hệ đối tác với nhiều nhà cung cấp
cho mình.
Khách hàng:
Khách hàng là đối tượng mà doanh nghiệp tổ chức sự
kiện phục vụ và mang lại nguồn thu cho nhà tổ chức sự kiện, tùy theo hình
thức tổ chức sự kiện mà khách hàng của sự kiện có thể khác nhau. Ví
dụ: một công ty bỏ tiền thuê một cuộc triển lãm hàng hóa thì khách
hàng là nhà đầu tư sự kiện. Trong trường hợp nhà tổ chức sự kiện tự
đứng ra tổ chức một sự kiện nào đó (ví dụ một cuộc biểu diễn
nghệ thuật), khách hàng chính là các nhà tài trợ cho sự kiện và
khán giả sự kiện.
Các đòi hỏi của khách hàng sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động tổ chức sự kiện, vì nhà tổ chức sự kiện phải tạo ra
các sự kiện đáp ứng nhu cầu hay nói cách khác đạt được mục tiêu
của khách hàng. Ví dụ mục tiêu và các yêu cầu cụ thể trong sự kiện của
nhà đầu tư sự kiện. Đây là yếu tố quyết định đến chủ đề cũng như nội dung của
sự kiện. Tuy nhiên với kinh nghiệm cũng như trách nhiệm của nhà tổ chức sự kiện
chuyên nghiệp cần có những sự tư vấn nhất định để hạn chế những đòi hỏi bất khả
thi, những yêu cầu không hiệu quả và thực sự mang lại lợi ích thiết thực cho
nhà đầu tư sự kiện.
Đối thủ cạnh tranh:
Mọi doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp tổ
chức sự kiện nói riêng đều phải đối đầu với các đối thủ cạnh tranh với
nhiều mức độ khác nhau. Trong quá
trình tiến hành tìm kiếm các nhà đầu tư sự kiện, cần phải hết sức
quan tâm đến đối thủ cạnh tranh để đưa ra các chính sách, chiến lược
cạnh tranh hợp lý. Đặc biệt nếu đối thủ cạnh tranh cùng tham gia đấu
thầu trong việc tổ chức một sự kiện nào đó, mức độ cạnh tranh sẽ
trở nên khốc liệt hơn. Quá trình cạnh tranh này sẽ ảnh hưởng đến sự
kiện (ảnh hưởng đến ngân sách, chương trình, ý tưởng... do tác động
từ đối thủ cạnh tranh).
Chính quyền và cư dân nơi diễn ra sự
kiện:
Là chính quyền và cư dân giới hạn trong một phạm vi địa lý nào đó chịu
ảnh hưởng trong thời gian tiến hành sự kiện. Phạm vi giới hạn là lớn hay nhỏ,
tùy theo mức độ ảnh hưởng cũng như quy mô của sự kiện. Phạm vi này có thể là:
xóm thôn, phường xã, một cơ quan, trường học và rộng hơn có thể là một thành phố,
điểm du lịch, vùng lãnh thổ, quốc gia…
Chính quyền và cư dân nơi diễn ra sự kiện sẽ ủng
hộ hoặc chống lại các hoạt động tổ chức sự kiện, do đó có thể tạo thuận lợi
hay gây khó khăn cho doanh nghiệp. Để thành công, doanh nghiệp phải tạo lập,
duy trì và phát triển mối quan hệ tốt đẹp với nhóm này, đặc biệt
là chính quyền nơi diễn ra sự kiện. Quan hệ tốt với chính quyền nơi
diễn ra sự kiện không chỉ thuận lợi trong việc giải quyết các thủ
tục hành chính mà còn có thể được sự trợ giúp của chính
quyền về các vấn đề an ninh, vệ sinh, giao thông… thậm chí với
các sự kiện mang tính phi lợi nhuận và có tính xã hội cao (ví dụ
tuần lễ vệ sinh môi trường ở khu du lịch Thiên Cầm) còn có thể được
sự tài trợ về kinh phí từ chính quyền nơi diễn ra sự kiện (trong
trường hợp này chính quyền còn có thêm vai trò là nhà tài trợ trong
sự kiện).
1.4.
MỘT
SỐ Ý NGHĨA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA SỰ KIỆN
1.4.2.
Ý nghĩa của hoạt động tổ chức sự kiện với các thành phần
tham gia sự kiện
Hoạt động tổ chức sự kiện chuyên nghiệp mang
lại nhiều lợi ích cho các bên tham gia vào sự kiện, đối với mỗi bên
tham gia sự kiện có thể xem xét lợi ích theo những khía cạnh khác
nhau. Đây chính là các vai trò cơ bản của tổ chức sự kiện. Ngoài ra,
việc tìm hiểu vai trò của hoạt động tổ chức sự kiện với các thành
phần tham gia sự kiện cũng chính là nghiên cứu những tác động của
sự kiện đến các đối tượng này.
1.4.2.1.Đối với nhà đầu tư sự kiện
Đối với bản
thân các sự kiện, khi tiến hành đầu tư các sự kiện các chủ đầu tư
sẽ đạt được các mục đích khác nhau của mình. Ví dụ: với doanh
nghiệp khi tiến hành tổ chức sự kiện là công việc góp phần “đánh bóng” cho
thương hiệu và sản phẩm của một công ty thông qua những sự kiện.
Tuy nhiên điều cần quan tâm hơn là những lợi ích mà
nhà đầu tư sự kiện thu được khi tiến hành sự kiện thông qua các nhà
tổ chức chuyên nghiệp:
1.4.2.1.1.
Thứ nhất, nhà đầu tư sẽ tiết kiệm được thời gian,
công sức cho việc tổ chức sự kiện, họ chỉ phải tập trung cho việc
thực hiện vai trò của mình (nếu có, chẳng hạn như chủ tịch đoàn,
hay lên tặng quà… trong sự kiện).
1.4.2.1.2.
Thứ hai, nhà đầu tư dễ dàng đạt được mục tiêu khi tổ
chức sự kiện hơn so với nếu mình tự đứng ra tổ chức vì họ sẽ tận
dụng được kinh nghiệm, các mối quan hệ, sự sáng tạo, các ý tưởng
cũng như tính chuyên nghiệp của các nhà tổ chức sự kiện.
1.4.2.1.3.
Thứ ba, cùng với các dịch vụ có trong một sự kiện
nếu nhà đầu tư sự kiện trực tiếp tiến hành họ sẽ thiếu thông tin
về các nhà cung cấp dịch vụ, hoặc không lựa chọn được các dịch vụ
vừa ý. Ngay cả vấn đề giá cả, đối với các nhà tổ chức sự kiện chuyên nghiệp do mối quan hệ thường xuyên với các nhà cung
ứng
dịch vụ tổ chức sự kiện bổ trợ (như trang trí, lưu trú, ăn uống…) sẽ
đàm phán được mức giá thấp hơn.
1.4.2.1.4.
Thứ tư, việc thuê các nhà tổ chức sự kiện chuyên
nghiệp sẽ giảm thiểu được rủi ro trong quá trình tổ chức (vì thông
thường nhà tổ chức sự kiện phải chia sẽ rủi ro) mặt khác, nhà tổ chức
sự kiện chuyên nghiệp sẽ phải tính toán đề phòng các sự cố có thể
xảy ra trong sự kiện (nếu không có kinh nghiệm rất khó thực hiện)
Có thể tham khảo một số lợi ích của sự kiện
đối với các nhà đầu tư/ tài trợ sự kiện qua hộp sau:
-
Sự kiện thương mại, giải trí, lễ hội, hội thảo, hội nghị...
Tuy nhiên, việc quan niệm hoạt động nào là “sự kiện” còn có nhiều
cách hiểu khác nhau:
- Có người hiểu sự kiện theo
nghĩa chỉ có những hoạt động mang tính xã hội cao, với quy mô lớn, có những ý
nghĩa nhất định trong đời sống kinh tế xã hội (cả tỉnh cả nước, được các phương
tiện truyền thông quan tâm và đưa tin) mới được xem là sự kiện. Ví dụ các sự
kiện như: hội nghị các nước nói tiếng Pháp, SEGAMES 23, cuộc thi hoa hậu toàn quốc…
- Trong khi đó, có người lại hiểu
“sự kiện” theo nghĩa gần với “sự việc” có nghĩa ngoài những sự kiện đương
nhiên như cách hiểu nói trên, nó còn bao hàm cả những hoạt động thường mang ý
nghĩa cá nhân, gia đình, hoặc cộng đồng hẹp trong đời sống xã hội thường ngày
như: tang ma, đám cưới, sinh nhật, tiệc mời…
Dưới đây, là
đoạn trích của một bài về tổ chức sự kiện ở một diễn đàn kinh doanh trên
Internet nói về nghề tổ chức sự kiện để biết thêm một cách hiểu khác về
“sự kiện”.
Một số lợi ích của tổ chức sự kiện
Tổ chức sự kiện (Event Planning) là
công việc góp phần “đánh bóng” cho thương hiệu
và sản phẩm của một công ty thông qua
những sự kiện (events).
Ví dụ khi hãng xe hơi Toyota
tung ra một sản phẩm ô tô đời mới, công ty này sẽ tổ chức một sự kiện ra mắt
công phu, mời các khách hàng thân thiết và tiềm năng cùng báo giới đến tham gia
sự kiện quan trọng này. Đây còn là cơ hội để doanh nghiệp gặp gỡ, trao đổi và
giao lưu với bạn hàng, đối tác, các cơ quan truyền thông, cơ quan công quyền,
giúp thúc đẩy thông tin hai chiều và tăng cường quan hệ có lợi cho doanh
nghiệp…
Công việc tổ chức sự kiện như
một bức tranh toàn cảnh của trò chơi ghép hình và người chơi chỉ thành công khi
ghép hoàn chỉnh bức tranh đó bằng hàng trăm, hàng ngàn mẩu nhỏ chi tiết. Đẳng
cấp của mỗi công ty thể hiện ở chính sự hoàn hảo trong từng tiểu tiết ở mỗi
event họ tổ chức.
Người tổ chức sự kiện không
chỉ có ý tưởng hay, viết kịch bản giỏi, lên thiết kế chương trình nhanh, mà còn
phải biết liên hệ tất cả khách hàng, khách mời, địa điểm tổ chức…để biết thông
tin chính xác và phải gắn bó với toàn bộ chương trình từ đầu đến cuối. Nếu
chương trình bị thay đổi vào phút cuối vì bất cứ lý do nào, kế hoạch sẽ bắt đầu
bằng con số không. Do vậy, nhân viên event phải chuẩn bị kỹ lưỡng mọi chi tiết
của chương trình.
Người tổ chức sự kiện giỏi
chắc chắn không thể thiếu những tố chất như: óc tổ chức tốt, năng động, nhanh
nhẹn, kiên nhẫn, có khả năng thiết lập mối quan hệ tốt, có khả năng tổ chức
nhóm làm việc, có sức khỏe và niềm đam mê. Nghề tổ chức sự kiện là nghề đòi hỏi
người thực hiện phải có sức chịu đựng cực kỳ bền sức và chịu được áp lực cao,
chịu được vất vả, gian truân để chạy đua với thời gian sao cho kịp với tiến độ
chương trình. Chưa kể là sự cạnh tranh ý tưởng giữa các event.
Đặc biệt, người làm tổ chức
sự kiện chỉ có thể nói “được”, tuyệt đối không có từ “không” khi nói chuyện với
khách hàng.. Họ còn phải biết cách xoay xở và ứng phó trong mọi tình huống. Người làm event thành công thì luôn nghĩ “ngày hôm nay
sẽ phải tốt hơn hôm qua”.
1.4.2.2.Tác động đến kinh tế
Các sự kiện diễn ra, đặc biệt là các sự kiện lớn sẽ thúc đẩy
sự phát triển kinh tế và đa dạng hóa các ngành nghề kinh tế của các quốc gia,
các địa phương.
1.4.2.2.1.
Trước hết, tổ chức sự kiện là một ngành
kinh tế tổng hợp nó góp một phần rất lớn đến việc phát triển du
lịch, sự phát triển sự kiện thường kéo theo sự phát triển của các ngành hàng
không, vận tải, thương mại, công nghiệp, nông nghiệp, ngân hàng v.v...
1.4.2.2.2.
Với các sự kiện lớn (ví dụ 1000 năm Thăng Long- Hà
Nội) quá trình chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự kiện, sẽ
tạo điều kiện phát triển cơ sở hạ tầng, tạo khối lượng việc làm
lớn cho nền kinh tế.
1.4.2.2.3.
Tổ chức sự kiện là một công cụ marketing hữu hiệu,
vì khi sự kiện diễn ra đạt kết quả tốt nó sẽ thúc đẩy hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.
1.4.2.2.4.
Bản thân quá trình tổ chức sự kiện sẽ tạo ra một
khối lượng việc làm nhất định cho xã hội, cùng với những tác động
kinh tế (đã đề cập ở trên), có thể thấy rằng sự kiện sẽ tạo ra
khối lượng việc làm đáng kể cho xã hội.
1.4.2.2.5.
Khi có sự phát triển dịch vụ tổ chức sự kiện, sẽ
góp phần nâng cao đời sống của người dân, phát triển nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc (qua việc tổ chức thành công các lễ
hội chẳng hạn). Sự kiện giúp con người có điều kiện giao lưu, đoàn
kết tiếp cận với cuộc sống hiện đại, góp phần nâng cao chất lượng
cuộc sống.
1.4.2.2.6.
Sự kiện ở phạm vi quốc tế góp phần vào việc mở rộng và
củng cố các mối quan hệ đối ngoại và làm tăng thêm sự hiểu biết lẫn nhau giữa
các dân tộc và các nước trên thế giới. Ví dụ
: qua Segames 23 tổ chức ở Việt Nam
góp phần phát triển các mối quan hệ của Việt Nam với các nước trong khu vực.
1.4.2.2.7.
Tổ chức các sự kiện truyền thống (ví dụ các lễ
hội văn hóa, phong tục tập quán, lễ hội tín ngưỡng...) một cách
chuyên nghiệp sẽ tác động trực tiếp và gián tiếp đến việc bảo tồn các di sản
văn hóa của một quốc gia, nâng cao truyền thống, lòng tự hào dân tộc, tính tự
trọng, tự tôn dân tộc, thúc đẩy việc giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá, bảo
tồn tính đa dạng văn hoá, khắc phục tính tự ty dân tộc.
Bên cạnh các tác động tích cực đã đề cập ở trên, khi diễn ra các
sự kiện cũng có thể gây ra những tác động tiêu cực nhất định đến
kinh tế xã hội như :
- Các sự kiện lớn, và
nhiều sự kiện cùng diễn ra sẽ gây sức ép ngày càng cao đối với hạ tầng cơ
sở (sử dụng nhiều điện, nước, nhiên liệu và làm tăng lượng nước thải và chất
thải); tăng chi phí cho hoạt động của công an, cứu hỏa, dịch vụ y tế...
- Các sự kiện có thể gây
các vấn đề như tắc nghẽn giao thông ; ô nhiễm môi trường, phá vỡ lối
sống của dân cư nơi diễn ra các sự kiện, sự gián đoạn của các hoạt
động kinh doanh bình thường...
- Ảnh hưởng của các sự
kiện đến đời sống dân cư nơi diễn ra sự kiện như các vấn đề về tập
trung quá đông lượng người, tăng giá các hàng hóa tiêu dùng, khan hiếm
hàng hóa...
- Một số sự kiện có thể
kéo theo các tệ nạn xã hội như : ma tuý, cờ bạc, mất trật tự công cộng ở
nhiều địa phương, hoặc có thể gây ra sự lây truyền một số bệnh tật.
- Các vấn đề về môi trường
mà tiêu biểu nhất là rác thải: Khi sự kiện diễn ra sẽ xuất hiện nhu
cầu cao về tiêu dùng các sản phẩm và lượng người đông sinh hoạt và đời sống,
cho nên thường thải ra môi trường lượng chất thải lớn. Sự kiện còn có thể
làm ô nhiễm môi trường không khí, tiếng ồn
lớn…
Tóm lại, tổ chức sự kiện vừa có tác động tích cực, vừa
có tác động tiêu cực đến kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Nhận thức được
vấn đề này, để nhà đầu tư sự
kiện, nhà tổ chức sự kiện phải biết cân đối các lợi ích khi tiến hành
sự kiện cũng như lựa chọn được cách thức tiến hành sự kiện một
cách hiệu quả nhất; hạn chế những mặt tiêu cực phát huy những tác
động tích cực mà sự kiện mang lại cho đời sống kinh tế xã hội.
1.4.3. Mối
quan hệ giữa sự kiện và du lịch
1.4.3.2. Tổ chức sự kiện và
xúc tiến du lịch
Việc tổ chức các sự kiện, đặc biệt là các sự kiện lớn có
quy mô quốc gia, quốc tế sẽ có những tác động rất lớn đến hoạt
động xúc tiến du lịch. Qua các sự kiện không chỉ làm tăng số lượng
khách mà còn kéo dài thời gian lưu trú, tăng chi tiêu của khách.
Tuy nhiên, không chỉ có các lợi ích
trước mắt như đã đề cập ở trên mà việc tổ chức sự kiện còn mang lại
những lợi ích lâu dài khác. Thông qua các sự kiện cùng với việc
quảng bá của các phương tiện thông tin đại chúng, cùng với sự quảng
bá trực tiếp từ lượng khách đến tham gia sự kiện có thể tạo nên
hình ảnh tốt đẹp về nơi diễn ra sự kiện như một điểm đến du lịch hấp dẫn. Điều này, sẽ hấp dẫn các du khách
mới và thu hút những khách đã đến tham gia sự kiện quay trở lại.
Ngoài ra như trên đã đề cập, du lịch MICE có
liên hệ rất chặt chẽ với dịch vụ tổ chức sự kiện, việc mở rộng các
sự kiện sẽ thúc đẩy loại hình du lịch MICE phát triển.
1.4.3.2.Tổ chức sự kiện và thời
vụ du lịch
Một trong những thế mạnh của sự kiện là tạo ra sức hút về
khách du lịch để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của thời vụ du lịch.
Tại những điểm du lịch chịu ảnh
hưởng rất lớn về tính thời vụ (ví dụ các điểm du lịch biển ở
miền bắc Việt Nam) vào thời
điểm ngoài vụ lượng khách du lịch rất ít, trong khi đó cơ sở vật
chất và các điều kiện về cung du lịch lại dư thừa gây nên sự lãng
phí rất lớn.
Tại các điểm du lịch có tính thời
vụ cao này, vào thời điểm ngoài
vụ nếu có điều kiện tổ chức các sự kiện như: các lễ hội văn hóa
truyền thống, lễ hội thể thao, hội thảo, hội nghị… sẽ tiếp tục khai
thác được lượng khách du lịch. Việc tạo
ra các sự kiện mang tính chất truyền thống có thể còn phụ thuộc
vào chiều dày lịch sử, văn hóa… tuy nhiên có một số sự kiện mang
tính hiện đại (đặc biệt là các sự kiện về văn hóa, thể thao, hội
nghị, hội thảo, giải trí, thi đấu…) có thể tổ chức nếu có được
các điều kiện thuận lợi (ví dụ: đăng cai cuộc thi Sao Mai ở Tuần Châu vào mùa đông chẳng hạn),
điều này sẽ tạo nên một lượng khách đáng kể đến với điểm du lịch.
Một trong số những điểm du lịch biển khai thác tốt nhất việc tổ chức sự kiện và du lịch MICE trong thời điểm
ngoài vụ ở miền Bắc là Đồ Sơn- Hải Phòng. Trong thời gian tới, các điểm du lịch cần chú trọng quan
tâm đến việc khai thác và tổ chức các sự kiện để khắc phục những
tác động của thời vụ du lịch.
1.4.3.3.Tổ chức sự kiện có thể
nâng cao cơ sở vật chất phục vụ du lịch
Các sự kiện lớn ở tầm quốc tế như các olimpic, world cup hoặc
ở quy mô nhỏ hơn như: seagames, asian cup, hội nghị thượng đỉnh các
nước nói tiếng Pháp… sẽ là một dịp để nâng cao cơ sở vật chất phục
vụ du lịch.
Đối với các sự kiện này, các chính phủ các
tổ chức trong và ngoài nước sẽ có những đầu tư cho nơi tổ chức sự
kiện xây dựng, nâng cấp hoàn thiện không chỉ là cơ sở hạ tầng về
giao thông, thông tin liên lạc mà còn đầu tư phát triển các cơ sở cung
ứng du lịch.
Ngoài ra, khi sự kiện sắp diễn ra, do kỳ vọng lượng khách đến tham gia sư kiện và do những tác động tích cực của việc tổ chức sự kiện đến xúc tiến du lịch (như đã đề cập ở trên) các cơ sở kinh doanh du lịch sẽ tiến hành đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất của mình.
Tư vấn tổ chức sự kiện-tiệc gala
Hồ Sơn - 0965.60.30.55
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét